Kính thưa quý thính giả, lịch sử Việt Nam ghi chép, vào thời nhà Trần, bên cạnh những vị minh quân có nhiều danh tướng lập nhiều chiến công hiển hách trong cuộc chiến chống giặc Nguyên – Mông xâm lược. Trong số đó có một dũng tướng đánh tan đạo thủy quân chở lương thực và vũ khí tại cửa Vân Đồn tạo nên chiến công lừng lẫy. Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Dũng Tướng Trần Khánh Dư” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Việt Thái
Trần Khánh Dư quê ở Chí Linh, Hải Dương, là con của Thượng tướng Nhân Huệ Hầu Trần Phó Duyệt (thuộc dòng dõi Thái sư Trần Thủ Độ) và bà Trần Thái Anh. Ông là người văn võ song toàn, nổi tiếng về tài dụng binh. Nhờ có công trong trận “đánh úp” quân Mông Cổ trong lần xâm lăng Đại Việt lần thứ nhất, nên Ông được vua Trần Thái Tông nhận làm con nuôi, phong chức Phiêu kị Đại tướng quân và ban tước Nhân Huệ Vương.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ ba, Ông làm Phó tướng trấn giữ Vân Đồn và đã lập công lớn trong việc đánh tan đạo thủy quân Mông Cổ chở lương thực và vũ khí do Trương Văn Hổ chỉ huy vào tháng 12 năm 1287. Chiến thắng này góp công lớn trong đánh bại toàn bộ đại quân Nguyên – Mông xâm lược, được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt.
Tháng 5 năm 1312, Trần Khánh Dư theo vua Trần Anh Tông đánh bại quân Chiêm Thành. Trong trận này, quân Đại Việt bắt sống chúa Chiêm Thành là Chế Chí.
Ngoài võ nghệ siêu quần, Trần Khánh Dư còn có tài về văn chương. Chính ông là người viết lời tựa cho cuốn Vạn Kiếp tông bí truyền của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Năm 1323, Ông xin về nghỉ hưu tại xã Dương Hòa, Lý Nhân (Hà Nam). Chính sử viết rằng, khi ông đi đến Tam Điệp, Trường Yên (Ninh Bình), thấy đồng cỏ bát ngát, sông nước hữu tình, liền đưa người đến khai khẩn, lập làng mới đặt tên là trại An Trung. Sau đó, dân các vùng kế cận tiếp tục lập thêm các trại Động Khê và Tịch Nhi, thuộc 2 xã Yên Nhân và Yên Đồng thuộc huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay.
Ông ở lại nơi này suốt 10 năm, sau đó trở về ấp Dưỡng Hòa, giao lại các trại mới lập cho 2 gia tướng họ Bùi và họ Nguyễn chăm sóc. Trong buổi đầu khai hoang lập ấp, Ông đã xuất tiền riêng giúp vốn cho dân và hướng dẫn dân trại Tịnh Nhi trồng và dệt cói.
Trần Khánh Dư mất năm 1340. Để ghi nhớ công đức, dân chúng trong vùng lập đền thờ Ông ở trại An Trung nơi xưa ông trú ngụ. Trong đền có bức đại tự ghi: “Ẩm hà tư nguyên” (tức uống nước nhớ nguồn) và 2 câu đối:
“Nhân Huệ Vương tân sáng giang biên, thố địa ốc nhiều kim thượng tại.
Bùi, Nguyễn tộc cựu mô kế chí, gia cư trù mật cổ do lưu”.
Tạm dịch:
“Nhân Huệ Vương mở bến sông mới, đồng ruộng tốt tươi nay vẫn đó.
Họ Bùi, Nguyễn theo nối chí, cửa nhà đông đúc trước vẫn còn đây”.
Hàng năm, ở bến Đình thuộc xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, dân chúng trong vùng đều tổ chức lễ hội Quan Lạn, là hội của người dân đảo Quan Lạn (một hòn đảo nằm ở khu trung tâm Thương cảng Vân Đồn) nhằm mục đích tưởng nhớ chiến thắng lẫy lừng tại Vân Đồn vào năm 1287.
Lễ hội diễn ra từ ngày 10 đến ngày 20 tháng 6 âm lịch, được tổ chức tại bến Đình, nơi có đình Quan Lạn, một ngôi đình cổ còn giữ được gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay.
* * *
Trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Văn thần Nguyễn Trãi viết: “Đất nước có lúc thịnh lúc suy, nhưng hào kiệt thời nào cũng có”. Đúng như thế! Trong những giờ phút lâm nguy của đất nước, dân tộc Việt sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt đứng lên cứu lấy muôn dân. Họ chấp nhận hy sinh thân mình để chận đứng bước tiến của lũ giặc Tàu phương Bắc, giữ vững nền Độc lập – Tự chủ cho nước nhà.
Trần Khánh Dư được xem là một anh hùng văn võ toàn tài đã đóng góp công sức và máu xương của mình để chận đứng vó ngựa của quân Mông Cổ tiến xuống phương Nam. Nhìn lại nhà Trần, con dân nước Việt đều cảm thấy vận mệnh đất nước rất may mắn khi sản sinh hàng loạt những anh hùng, ngoài Trần Khánh Dư còn có Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, .v.v. có tài văn thao võ lược trong thời đế quốc Mông Cổ đang lúc hùng mạnh nhất, tung hoành từ Á sang Âu, rất nhiều quốc gia bị đại quân này tiêu diệt, tiêu biểu là nước Đại Lý, một quốc gia có mối giao hảo tốt đẹp với Đại Việt.
Mấy chục năm qua, Tập đoàn CSVN luôn phê phán nặng nề các triều đại phong kiến, nhưng dù muốn bóp méo lịch sử đến đâu chăng nữa, họ cũng không thể bôi nhọ được những văn thần võ tướng của triều Trần, những anh hùng đã đổ xương máu để giữ vững giang sơn Đại Việt và mở rộng cõi bờ về phương Nam. Họ sẵn sàng quỳ xuống xin vua chém đầu mình, chứ nhất quyết không chịu đầu hàng quân giặc và không chấp nhận dâng một tấc đất nào cho ngoại bang để cầu hòa, ngõ hầu được lợi lộc cho bản thân như tập đoàn lãnh đạo CSVN hiện nay.
Nhiều năm qua, trong khi quân Tàu Cộng tàn sát ngư dân Việt ngoài Biển Đông, thì nhà cầm quyền CSVN chẳng những im hơi lặng tiếng, mà càng hô hào kêu gọi tăng cường mối bang giao với lũ giặc phương Bắc. Nỗi ô nhục này chắc chắn sẽ tồn tại đến ngàn đời sau!
No comments:
Post a Comment