Kính thưa quý thính giả, sau khi thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, rất nhiều trí thức đã tham gia kháng chiến giành lại độc lập cho nước nhà. Mục tiêu thì chung,
nhưng có nhiều khuynh hướng và chủ trương khác nhau. Có người chọn con
đường võ trang nổi dậy, cũng có người chọn giải pháp ôn hòa. Trong số
chọn giải pháp ôn hòa có một người chủ trương hợp tác với Pháp để xây
thêm trường học, mở mang dân trí và đào tạo thêm nhiều trí thức để nâng
cao dân khí mang lại ấm no cho đồng bào. Qua chuyên mụcDanh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Chí Sĩ Phan Chu Trinh” của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Cụ Phan Chu Trinh sinh ngày 9/9/1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Cha là Phan Văn Bình và mẹ là Lê Thị Chung.
Năm 27 tuổi được tuyển vào trường tỉnh, học chung với các cụ Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Quang và Phạm Liệu. Cụ đỗ Cử Nhân vào năm 1900, một năm sau đỗ Phó Bảng và đến năm 1903, được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ.
Năm 1905, cụ Phan từ quan, cùng với hai bạn học là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng đi thăm miền Nam, với mục đích xem xét đời sống người dân và tìm người đồng chí hướng.
Sau cuộc Nam du, cụ Phan ra Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội để gặp gỡ và hội ý với các sĩ phu. Cụ cũng lên căn cứ Đề Thám quan sát tình hình và nhận thấy con đường võ lực không thể tồn tại lâu dài.
Năm 1906, cụ Phan bí mật sang Quảng Đông gặp cụ Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản tiếp xúc với nhiều nhà chính trị và nghiên cứu cuộc duy tân của nước này.
Mùa hè năm 1906,
cụ Phan về nước, gửi thư cho Toàn quyền Paul Beau vạch trần sai trái
của chế độ thực dân, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ
đối với dân Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp người Việt từng
bước tiến theo nền văn minh Tây phương.
Sau đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và “tư tưởng dân quyền”, cụ Phan cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cho phong trào Duy Tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: “Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”. Với chủ trương bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân trí, cải cách giáo dục, phát động phong trào học chữ Quốc ngữ, mở mang thương nghiệp và chấn hưng công nghệ…
Thời gian này, Cụ viết bài “Tỉnh quốc hồn ca”, kêu gọi mọi người nên Duy Tân theo hướng Dân chủ Tư sản. Hưởng ứng lời kêu gọi này, tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận đã mở nhiều trường học, thư xã, thương nghiệp.v.v.
Tháng 3 năm 1908, phong trào chống sưu cao thuế nặng ở Trung Kỳ bị nhà cầm quyền Pháp đàn áp dữ dội. Cụ Phan và nhiều thành viên trong phong trào Duy Tân bị bắt. Tòa Khâm sứ Huế và Nam triều đều muốn xử tử cụ Phan, nhưng nhờ sự can thiệp của những người Pháp trong Hội Nhân Quyền tại Hà Nội, nên Cụ chỉ bị kết án biệt xứ, đày đi Côn Đảo. Sau đó, nhờ dư luận và sự vận động của Hội Nhân Quyền Pháp, Cụ được ân xá đưa về Sài Gòn và chịu sự quản thúc tại Mỹ Tho.
Pháp muốn tìm người dạy Hán văn tại Pháp, nên chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục sang Pháp, trong số có Cụ Phan và con trai là Phan Châu Dật.
Đến Pháp, Cụ Phan trao cho Hội Nhân Quyền Pháp bản điều trần về vụ đàn áp tại Trung Kỳ và tố cáo tình trạng các tù nhân ở Côn Sơn bị đối xử tồi tệ, đồng thời nhờ Đảng Xã hội Pháp can thiệp nhằm giảm án cho họ.
Cụ tiếp xúc với những nhân vật cao cấp ở Bộ Thuộc Địa, với Albert Saurraut (sắp nhậm chức Toàn quyền Đông Dương) để đưa ra những dự án cải tổ nền chính trị tại Việt Nam nhưng không có kết quả, vì thế lực của thực dân đang mạnh. Trong khoảng thời gian này, Cụ viết cuốn sách “Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam”.
Ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến với Pháp. Pháp bắt cụ Phan và Phan Văn Trường
đi lính, nhưng 2 người phản đối vì không phải là công dân Pháp. Mấy
tháng sau, 2 người bị Pháp bắt giam và kết tội là gián điệp của Đức.
Vì không đủ bằng chứng buộc tội, Pháp trả tự do cho 2 người sau nhiều
tháng giam giữ. Sau khi ra tù, cụ Phan đã phát hành tuyển tập thơ “Santé thi tập” với hơn 200 bài sáng tác trong tù.
Thấy ở Pháp không hoạt động được, nhiều lần Cụ yêu cầu chính phủ Pháp cho về nước, nhưng đều không được chấp thuận. Mãi đến năm 1925, khi thấy sức khỏe Cụ đã suy yếu, Pháp mới cho về nước. Trong thời gian này, Cụ viết cuốn “Đông Dương chính trị luận”.
Ngày 26 tháng 6 năm 1925, Cụ Phan về tới Sài Gòn. Tuy bị bệnh, nhưng Cụ cố gắng diễn thuyết thêm 2 đề tài “Ðạo đức và luân lý Đông Tây”, “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa”. Hai bài này có tác động lớn đến thế hệ trẻ tại Sài Gòn.
Ngày 24 tháng 3 năm 1926,
cụ Phan qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu ở Sài Gòn, được một Ủy ban
gồm nhiều nhân sĩ và trí thức, tổ chức lễ Quốc Táng và chôn Cụ tại quận Tân Bình,
Sài Gòn. Nhờ vào tấm lòng yêu nước thương dân, cụ Phan được ghi sâu vào
lòng dân tộc, nhiều con đường ở khắp nơi trong nước được đặt tên Phan
Chu Trinh.
Nhìn lại thời kỳ đen tối và hủ nát hiện nay của chế độ cộng sản, người Việt càng khâm phục chủ trương “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” mà Cụ Phan đề ra vào đầu thế kỷ trước.
Nếu so với thời phong kiến thực dân thời Cụ Phan, thì tình trạng thối
nát của tập đoàn cộng sản VN đã vượt xa. Nền giáo dục hiện nay đã suy
thoái đến độ vô phương cứu chữa, dẫn đến sự tha hóa trong xã hội và nền
đạo đức bị băng hoại. Với “dân trí và dân khí” như thế thì chuyện mất nước là điều không thể tránh khỏi, nói chi đến dân sinh.
Là con cháu của một bậc tiền bối có tài năng lỗi lạc như cụ Phan Chu
Trinh, chúng ta có thể khoanh tay làm ngơ, đứng nhìn Việt Nam đang lún
sâu vào vũng lầy suy thoái và sẽ trở thành một quận huyện của Tàu hay
không?
Câu trả lời xin dành cho những người con nước Việt!
No comments:
Post a Comment