Kính thưa quý thính giả, một vị tướng thuộc QLVNCH, đảm
nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, khi còn mang cấp bậc Đại Tá.
Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, được giao nhiệm vụ tổng chỉ huy mặt trận An Lộc,
ông đã giữ vững thị xã và đẩy lui quân cộng sản Bắc Việt sau 2 tháng tử
chiến tại mặt trận này. Ngày 30/4/1975, sau khi Tổng thống Dương Văn
Minh ra lệnh cho quân đội buông súng, vị tướng này cho thuộc cấp tan
hàng và dùng súng tự sát đền nợ nước.
Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Dũng Tướng Lê Văn Hưng” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Dũng Tướng Lê Văn Hưng” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Tướng Lê Văn Hưng xuất thân khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức, mãn khóa
vào tháng 1 năm 1955. Sau khi ra trường, ông thuyên chuyển về miền Tây
giữ các chức vụ chỉ huy từ cấp Đại đội, Tiểu đoàn (TĐ), Trung đoàn (TrĐ) thuộc Sư đoàn (SĐ) 21 Bộ Binh.
-Năm 1966, mang cấp bậc Thiếu tá, ông giữ chức vụ TĐ trưởng TĐ2, TrĐ
31, SĐ21BB. Trong năm 1966, ông được các phóng viên chiến trường vinh
danh là một trong Ngũ hổ U Minh Thượng cùng với 4 sĩ quan khác là: Thiếu
tá Lưu Trọng Kiệt, TĐ trưởng TĐ 42 Biệt Động Quân; Thiếu tá Nguyễn Văn
Huy, Tiểu đoàn trưởng TĐ 44 BÐQ; Ðại úy Vương Văn Trổ, Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 3, TrĐ 33, SĐ21BB; Ðại úy Hồ Ngọc Cẩn, TĐ trưởng TĐ 1, TrĐ33,
SĐ21BB.
-Năm 1968, ông làm TrĐ trưởng TrĐ 31, SĐ21BB. Do lập nhiều chiến công tại chiến trường Hậu Giang, ông được thăng cấp Đại tá.
-Tháng 6/1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh SĐ5BB.
-Năm 1972, ông thăng cấp Chuẩn tướng.
-Ngày 3/9/1972, ông giữ chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn III, Quân khu 3.
-Năm 1973, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh SĐ 21 BB.
-Cuối tháng 10/1974, ông nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn IV, Quân khu 4.
Tối ngày 30/4/1975, tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn, sau khi nói lời từ giã
với gia đình và bắt tay vĩnh biệt thuộc cấp, ông đã quay vào văn phòng,
khóa chặt cửa và tự sát bằng súng vào lúc 8 giờ 45 phút tối.
***
Một sĩ quan tình báo Mỹ, tác giả cuốn Last man Out – A Personal Account of the Vietnam War, James E Parker đã kể lại cái chết bi hùng, đầy thương cảm của Tướng Lê Văn Hưng như sau:
“Ngày 30/4/1975, đúng 7 giờ tối, do không muốn thảo luận với một giới
chức Việt Cộng tên Hoàng Văn Thạch, để bàn giao vùng Hậu Giang cho Cộng
Sản, Tướng Lê Văn Hưng đã nhắn gọi vợ con ông đến văn phòng làm việc
tại Bộ tư lệnh Quân đoàn.
Khi vợ con đến, ông nói lời chia tay và hôn từng đứa con. Bên ngoài,
nhiều sĩ quan và binh lính thuộc cấp đứng sắp hàng, chờ đợi lệnh. Sau
đó, ông tuyên bố trước hàng quân rằng, cuộc chiến đã chấm dứt, nước mất
là do lãnh đạo kém tại Sài Gòn và xin thuộc cấp tha thứ nếu như cá nhân
ông có những lỗi lầm nào đó. Ông nói tiếp:“Tôi chấp nhận cái chết. Vĩnh biệt các anh em”.
Ông bắt tay từng người, yêu cầu mọi người ra về và bước vô phòng làm
việc. Chỉ trong khoảnh khắc sau đó vang lên một tiếng nổ. Tướng Hưng đã
tự sát bằng súng”.
***
Đại tá Lê Văn Hưng đã cùng với quân nhân các cấp giữ vững phòng tuyến
Bình Long. Trong những giờ phút căng thẳng nhất của cuộc chiến, ông đã
nêu gương sáng cho các sĩ quan thuộc quyền về phong cách chỉ huy. Trong
cuộc phỏng vấn, thay vì nói về mình, ông chỉ đề cao tinh thần chiến đấu
của binh sĩ thuộc các quân binh chủng đã giữ vững An Lộc và tình cảnh bi
đát của mấy chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn Bình Long. Khí
tiết của ông đã thăng hoa giữa chiến trường Bình Long và đã nở rộ tại
phòng tuyến An Lộc.
Và trong thời điểm mất nước ngày 30/4/1975, vì tinh thần trách nhiệm
ông đã không bỏ nước ra đi, ở lại với một lựa chọn vinh dự và quyết định
cho sinh mạng của mình. Trước khi tự sát, ông nhận trách nhiệm trước
lịch sử và dân tộc, ông nói: “Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được Nước, không bảo vệ được Thành, thì phải chết theo Thành”.
Với dụng ý vinh danh và tưởng niệm vị tướng Lê Văn Hưng, nơi trang cuối của tác phẩm Last Man Out, tác giả đã xếp bài thơ không tựa, không tên tác giả với câu thơ chấm dứt:
“I am not there. I did not die”. Và sau chót, một câu lập ngôn được xem như Quân huấn của danh tướng Douglas MacArthur: “Duty, Honor, Country”.
Khi viết cuốn sách này, chắc chắn tác giả sẽ ngậm ngùi nhớ lại dấu
mốc lịch sử khi Tướng Robert Edward Lee, trao thanh gươm biểu tượng cho
sự đầu hàng của Nam quân cho Tướng Ulysses S. Grant của Bắc quân, để
chấm dứt cuộc nội chiến Nam – Bắc Mỹ. Sau khi nhận thanh gươm, Tướng
Grant đã nói một câu bất hủ để xóa đi mặc cảm thất trận của Tướng Lee: “Đây không phải là sự thắng bại gì cả. Đây là niềm ô nhục trong lịch sử Hoa Kỳ”.
Chính nhờ câu nói đó mà Tướng Lee không chết vì uất hận, trái lại đã
cổ xúy mạnh mẽ cho việc hòa hợp giữa 2 miền sau chiến tranh để phục hưng
đất nước. Nhưng VN không có được sự may mắn đó, mấy mươi năm qua, người
cộng sản vẫn tiếp tục gây thêm phân hóa và hận thù trong lòng dân tộc
khi ra rả xưng tụng cái gọi là “Đại thắng Mùa xuân”. Nhưng CS càng gây
thêm hận thù thì càng làm cho người dân Việt tìm hiểu và biết đến những
võ tướng hiển hách của Quân lực VNCH, trong đó có tướng Lê Văn Hưng,
người hùng An Lộc.
Sắp đến 45 năm kể từ ngày 30/4/1975, không chỉ có các thế hệ lớn lên ở
VN mà cả thế giới rất đau lòng khi biết được giờ phút lẫm liệt vào lúc
cuối đời của tướng Lê Văn Hưng. Ông đã chọn cái chết bi hùng, tên tuổi
của ông đã lưu danh trong sử Việt. Thành kính dâng lên 3 nén hương lòng
để tưởng nhớ đến người anh hùng Vị quốc Vong thân.
No comments:
Post a Comment