Saturday, August 27, 2022

Chí sĩ Nguyễn An Ninh

Danh Nhân Nước Việt

 Kính thưa quý thính giả,

Một người có tấm lòng yêu nước, là nhà báo và là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 bị tù 5 lần. Ông đã làm thức tỉnh cả một thế hệ, quyết tâm chống thực dân Pháp đến cùng và hiên ngang nở nụ cười trước khi chết trong tù ngoài Côn Đảo.

Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Chí sĩ Nguyễn An Ninh” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.

Sống mà vô dụng, sống làm chi,

Sống chẳng lương tâm, sống ích gì?

Sống trái đạo người, người thêm tủi,

Sống quên ơn nước, nước càng khi.

Sống tai như điếc, lòng đâm thẹn,

Sống mắt dường đui, dạ thấy kỳ.

Sống sao nên phải, cho nên sống,

Sống để muôn đời, sử tạc ghi.

****

Chết sao, danh tiếng vẫn còn hoài,

Chết đáng, là người đủ mắt tai.

Chết được dựng hình, tên chẳng mục,

Chết đưa vào sử, chứ không phai.

Chết đó, rõ ràng danh sống mãi,

Chết đây, chỉ chết cái hình hài.

Chết vì Tổ quốc, đời khen ngợi,

Chết cho hậu thế, đẹp tương lai.

Đó là bài thơ “Sốngbài thơ “Chết” của chí sĩ Nguyễn An Ninh viết trong tù vào năm cuối đời.

Nguyễn An Ninh sinh ngày 15/9/1900 tại xã Long Thượng, quận Cần Giuộc, tỉnh Long An. Cha là Nguyễn An Khương, người ở quận Hóc Môn, một nhà văn có tinh thần yêu nước, tinh thông chữ Hán và Quốc ngữ.

Thuở nhỏ, Nguyễn An Ninh học tại trường Taberd, Collège Mỹ ThoTrường Chasseloup Laubat ở Sài Gòn. Năm 1915, lúc 15 tuổi, ông được nhận làm biên tập cho tờ báo Courrier Saigonnais. Năm sau, nhờ tốt nghiệp trung học với bằng ưu hạng, ông ra Hà Nội học Cao đẳng Y Dược, nhưng mới nửa năm, ông chuyển sang học luật tại Trường Cao đẳng Pháp thuộc Đại học Đông Dương.

Năm 1918, ông sang Pháp, tiếp tục học luật tại trường Đại học Sorbonne2 năm sau, ông lấy bằng Cử nhân Luật. Trong thời gian ở Paris, ông cùng với Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, tạo được uy tín đối với kiều bào tại Pháp qua các bài viết trên báo Le Paria (Người Cùng Khổ). Ông về nước ngày 5/10/1922.

Ngày 25/1/1923, ông diễn thuyết đề tài "Une culture pour les Annamites" bằng tiếng Pháp (tạm dịch là Chung đúc học thức cho dân An Nam) với mục đích kêu gọi người Việt mở mang dân trí, xây dựng nền dân chủ để thoát ách nô lệ ngoại bang.

Ngày 22/2/1923, ông sang Pháp lần thứ hai, với ý định lấy bằng Tiến sĩ Luật, nhưng ông chỉ lưu lại hơn nửa năm rồi trở về nước dịch 5 chương đầu của cuốn Khế ước Xã hội của Jean Jacques Rousseau, nhằm truyền bá tư tưởng "Tự Do - Dân Chủ".

Vào đêm 15/10/1923, ông xuất hiện trên diễn đàn với đề tài "Lý tưởng của thanh niên An Nam". Ông cho rằng “không ai cấm thanh niên ngày nay phác họa ước mơ tương lai", và đả kích thực dân Pháp "khai thác bóc lột cả Đông Dương". Thống đốc Cognacq mấy lần đe dọa và cấm ông diễn thuyết tại các nơi công cộng.

Ông phản ứng bằng cách ra tờ báo La cloche fêlée (Tiếng Chuông Rè) ở Sài Gòn vào ngày 10/12/1923 để công kích chính sách của thực dân Pháp, đề cao các nhà cách mạng, để người đọc tin vào sức mạnh của dân tộc và truyền bá tư tưởng tự do.

Nhà cầm quyền Pháp ra lệnh cấm các nhà in và bưu điện không được nhận in, phát hành, cũng như vận chuyển, nên tờ báo “Tiếng Chuông Rè” phải tự đình bản sau khi phát hành số  thứ 19.

Ngày 10/1/1925, ông sang Pháp lần thứ ba. Trong thời gian này, ông viết "La France en Indochine" (Nước Pháp ở Đông Dương) với nội dung chống thực dân quyết liệt, đòi hỏi các quyền tự do dân chủ căn bản của con người. Ngoài ra, ông còn diễn thuyết bài "Tinh thần dân chủ của nước Việt Nam" tại Hội Bác Học ở Paris,

Ngày 21/3/1926, ông diễn thuyết trước 3 ngàn người, kêu gọi chống chủ nghĩa thực dân. Ba hôm sau, ông bị bắt và bị kết án 18 tháng tù, nhưng được ân xá sau 10 tháng. Sau đó, ông qua Pháp lần thứ tư và lần này, ông liên kết với một số người yêu nước thuộc nhiều chính kiến.

Ngày 6/1/1928, ông về nước, được dân chúng đón tiếp nồng nhiệt. Ông sáng tác vở tuồng “Hai Bà Trưng” để cổ xúy tinh thần dân tộc, nhưng chưa kịp trình diễn thì bị cấm đoán.

Cuối năm 1928, ông bị bắt lần thứ hai và lần này Pháp dựng lên vụ “Hội kín Nguyễn An Ninh” để bắt mấy trăm người ủng hộ ông. Ông bị kết án 3 năm tù. 

Ra tù, ông viết cho tờ báo Trung Lập của Nguyễn Văn Tạo và tờ Tranh Đấu của nhóm Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm. Do hoạt động tích cực, nên tháng 4 năm 1936, ông bị bắt lần thứ ba về tội "phá rối trị an". Ông tuyệt thực phản đối, nhờ dân chúng đấu tranh nên Pháp trả tự do cho ông vào tháng 11.

Đến tháng 7 năm 1937, Pháp lại bắt giam ông lần thứ tư, đến tháng 1 năm 1939 ông mới được thả.

Ngày 5/10/1939, ông bị bắt lần thứ 5 và cũng là lần cuối cùng với bản án 5 năm tù, lưu đày Côn Đảo. Tại nơi đây ông bị đói khát, kiệt sức và qua đời vào ngày 14/8/1943, hưởng dương 43 tuổi.

Để tưởng nhớ đến công lao của chí sĩ Nguyễn An Ninh đã cống hiến cho đất nước, tại các thành phố lớn đều có trường học nhiều đường phố mang tên ông.

No comments:

Post a Comment