Kính thưa quý thính giả, Một vị hoàng đế nổi tiếng là minh
quân, đã trị vì nước Đại Việt trong 56 năm từ năm 1073 đến năm 1129, lâu
nhất trong sử Việt. Thời gian ngài trị vì là thời kỳ thái bình thịnh
trị bậc nhất thời nhà Lý và cả các triều đại phong kiến. Trong tiết mục
“Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài
“Minh quân Lý Nhân Tông” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt, để
chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Việt Thái
Việt Thái
Vua Lý Nhân Tông có tên húy là Càn Đức, sinh ngày 22/2/1066 tại kinh đô
Thăng Long, là con trưởng của vua Lý Thánh Tông và Nguyên phi Lê Thị.
Năm 1072, vua Lý Thánh Tông băng hà, Lý Càn Đức 7 tuổi lên nối ngôi trở
thành vị hoàng đế thứ tư của triều nhà Lý.
Nhà Tống bên Tàu muốn nhân lúc vua Lý Nhân Tông còn nhỏ, mang quân đánh chiếm Đại Việt.
Năm 1075, trong khi nhà Tống đang điều quân ở Ung Châu chuẩn bị tiến sang đất Việt thì bị Thái úy Lý Thường Kiệt bất ngờ tiến quân sang đánh trước. Đầu năm 1076, đạo quân của Đại Việt đánh chiếm châu Ung và châu Liêm, đốt phá toàn bộ quân lương của quân Tống, sau đó rút lui về nước. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, quân Đại Việt tấn công sang đất Tàu.
Quá tức giận, vua nhà Tống cử Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại quân sang Đại Việt. Quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã chống cự và đánh bại đạo quân Tống tại trận tuyến trên sông Như Nguyệt. Năm 1077, Quách Quỳ chấp nhận giảng hòa và rút quân về nước.
Mặc dù đất nước đang bận giao tranh với nhà Tống, nhưng triều đình vẫn quan tâm đến giáo dục và cơ cấu quan lại. Năm 1075, Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam trường, còn gọi là Minh kinh Bác học, để chọn nhân tài ra làm quan. Khoa thi này là khoa thi đầu tiên ở Đại Việt và chỉ chọn 10 người. Thủ khoa khoa này là Lê Văn Thịnh, về sau giữ chức Thái sư kiêm Hàn lâm Học sĩ.
Một điều đáng nói hơn nữa là Phật giáo dưới thời vua Lý Nhân Tông tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Nhà vua ban nhiều quyền hành và đặc biệt phong cho nhà sư Khô Đầu làm Quốc sư. Chức vụ này chỉ giới hạn trong việc cố vấn trong các vấn đề liên quan đến quốc gia đại sự.
Sau cuộc chiến vào năm 1077, triều đình nhà Tống tỏ ra e dè trước sức mạnh của Đại Việt, nên đẩy mạnh các mối bang giao giữa hai nước.
Tuy trị vì lâu dài nhưng vua Lý Nhân Tông lại không có con trai để nối dõi. Đến cuối đời, ông nhận con của các thân vương hoàng tộc vào cung làm nghĩa tử và đích thân dạy dỗ. Ông chọn Lý Dương Hoán, con trai của Sùng Hiền Hầu, làm thái tử kế vị. Sau đó Dương Hoán lên ngôi, tức vua Lý Thần Tông, cũng là một vị minh quân giúp triều đại nhà Lý kéo dài thời kỳ hưng thịnh.
Ngày 15/1/1128, vua Lý Nhân Tông băng hà ở điện Vĩnh Quang, trị vì 56 năm, thọ 63 tuổi. Thái tử Dương Hoán lên nối ngôi, tức là Thần Tông Nhân Hiếu hoàng đế. Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc cùng các đại thần Dương Anh Nhĩ, Mậu Du Đô phụ giúp việc trị quốc.
Vua Lý Nhân Tông để lại nhiều tác phẩm, nhưng hiện chỉ còn lưu truyền 3 bài thơ, một vài bức thư gửi triều đình nhà Tống, 4 bài hịch tướng sĩ và một số chiếu chỉ.
Bài chiếu được xem là hay nhất là bài “Lâm chung di chiếu”. Đây là bài văn biểu lộ rõ phong cách, tấm lòng cao cả và nhân hậu của ông.
*****
Nói về vua Lý Nhân Tông, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết: “Lý Nhân Tông cũng là một vị vua khổ luyện, phấn đấu đạt đến độ học thức cao minh, hiểu sao đạo lý”. Chính vì thế, đánh giá tổng quát về ngài, các sử gia từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn đều nhận định, ngài là một vị “minh quân” không chỉ riêng thời nhà Lý mà còn là của nhiều triều đại phong kiến trong sử Việt.
Một sự kiện đánh dấu thời kỳ trị vì của ngài là từ năm 1075 đến năm 1076, Thái úy phụ chính Lý Thường Kiệt 2 lần đánh bại đạo quân hùng mạnh của nhà Tống trong chiến dịch phá Tống và chận bước tiến của quân Tống tại lũy Như Nguyệt. Các chiến tích này đã được lưu danh thiên cổ.
Ngài chẳng những là vị vua văn võ song toàn, thân dân, giỏi việc quan chế, mà còn chú tâm vào việc xây dựng nền móng giáo dục, thành lập Quốc Tử Giám (một kiểu trường đại học ngày nay) vào năm 1077. Ngài trị vì được 56 năm, trở thành vị vua ở ngôi lâu nhất trong sử Việt và ngài cũng là vị vua độc nhất để lại di chiếu không cho xây lăng mộ.
Đọc lại lịch sử Việt Nam, không ai là không cảm thấy ngậm ngùi khi nghĩ đến vận mệnh của đất nước. Là một nước “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”, dân tộc Việt đã xuất hiện hàng loạt các đấng minh quân, văn thần, võ thánh, mang lại thanh bình thịnh trị cho đất nước, khiến cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc phải nhiều lần từ bỏ dã tâm xâm lược.
Thế nhưng gần 200 năm qua, nước Việt lại chìm đắm trong vòng suy vi điên đảo, thiếu vắng những người “yêu nước thương dân” như vua Lý Nhân Tông. Tệ hại hơn nữa là sau hơn 74 năm bị cộng sản cai trị, nền tảng đạo đức trong xã hội VN bị hủy diệt gần như tận gốc. Nếu nhìn đảng CSVN từ trên xuống dưới, chỉ thấy nhung nhúc những con sâu bọ đã và đang đục khoét tài nguyên, luôn múa may quay cuồng như những tên hề trên sân khấu trong khi đất nước đang từng bước, từng bước trở thành một quận huyện của Tàu cộng. Rồi đây, con dân Việt nhiều thế hệ sẽ phải sống trong cảnh lầm than trong thời kỳ nô lệ mới, nếu tuổi trẻ VN không biết noi gương sáng của các bậc tiền nhân để “vùng lên cứu nước”!
Nhà Tống bên Tàu muốn nhân lúc vua Lý Nhân Tông còn nhỏ, mang quân đánh chiếm Đại Việt.
Năm 1075, trong khi nhà Tống đang điều quân ở Ung Châu chuẩn bị tiến sang đất Việt thì bị Thái úy Lý Thường Kiệt bất ngờ tiến quân sang đánh trước. Đầu năm 1076, đạo quân của Đại Việt đánh chiếm châu Ung và châu Liêm, đốt phá toàn bộ quân lương của quân Tống, sau đó rút lui về nước. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, quân Đại Việt tấn công sang đất Tàu.
Quá tức giận, vua nhà Tống cử Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại quân sang Đại Việt. Quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã chống cự và đánh bại đạo quân Tống tại trận tuyến trên sông Như Nguyệt. Năm 1077, Quách Quỳ chấp nhận giảng hòa và rút quân về nước.
Mặc dù đất nước đang bận giao tranh với nhà Tống, nhưng triều đình vẫn quan tâm đến giáo dục và cơ cấu quan lại. Năm 1075, Lý Nhân Tông mở khoa thi Tam trường, còn gọi là Minh kinh Bác học, để chọn nhân tài ra làm quan. Khoa thi này là khoa thi đầu tiên ở Đại Việt và chỉ chọn 10 người. Thủ khoa khoa này là Lê Văn Thịnh, về sau giữ chức Thái sư kiêm Hàn lâm Học sĩ.
Một điều đáng nói hơn nữa là Phật giáo dưới thời vua Lý Nhân Tông tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Nhà vua ban nhiều quyền hành và đặc biệt phong cho nhà sư Khô Đầu làm Quốc sư. Chức vụ này chỉ giới hạn trong việc cố vấn trong các vấn đề liên quan đến quốc gia đại sự.
Sau cuộc chiến vào năm 1077, triều đình nhà Tống tỏ ra e dè trước sức mạnh của Đại Việt, nên đẩy mạnh các mối bang giao giữa hai nước.
Tuy trị vì lâu dài nhưng vua Lý Nhân Tông lại không có con trai để nối dõi. Đến cuối đời, ông nhận con của các thân vương hoàng tộc vào cung làm nghĩa tử và đích thân dạy dỗ. Ông chọn Lý Dương Hoán, con trai của Sùng Hiền Hầu, làm thái tử kế vị. Sau đó Dương Hoán lên ngôi, tức vua Lý Thần Tông, cũng là một vị minh quân giúp triều đại nhà Lý kéo dài thời kỳ hưng thịnh.
Ngày 15/1/1128, vua Lý Nhân Tông băng hà ở điện Vĩnh Quang, trị vì 56 năm, thọ 63 tuổi. Thái tử Dương Hoán lên nối ngôi, tức là Thần Tông Nhân Hiếu hoàng đế. Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc cùng các đại thần Dương Anh Nhĩ, Mậu Du Đô phụ giúp việc trị quốc.
Vua Lý Nhân Tông để lại nhiều tác phẩm, nhưng hiện chỉ còn lưu truyền 3 bài thơ, một vài bức thư gửi triều đình nhà Tống, 4 bài hịch tướng sĩ và một số chiếu chỉ.
Bài chiếu được xem là hay nhất là bài “Lâm chung di chiếu”. Đây là bài văn biểu lộ rõ phong cách, tấm lòng cao cả và nhân hậu của ông.
*****
Nói về vua Lý Nhân Tông, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết: “Lý Nhân Tông cũng là một vị vua khổ luyện, phấn đấu đạt đến độ học thức cao minh, hiểu sao đạo lý”. Chính vì thế, đánh giá tổng quát về ngài, các sử gia từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn đều nhận định, ngài là một vị “minh quân” không chỉ riêng thời nhà Lý mà còn là của nhiều triều đại phong kiến trong sử Việt.
Một sự kiện đánh dấu thời kỳ trị vì của ngài là từ năm 1075 đến năm 1076, Thái úy phụ chính Lý Thường Kiệt 2 lần đánh bại đạo quân hùng mạnh của nhà Tống trong chiến dịch phá Tống và chận bước tiến của quân Tống tại lũy Như Nguyệt. Các chiến tích này đã được lưu danh thiên cổ.
Ngài chẳng những là vị vua văn võ song toàn, thân dân, giỏi việc quan chế, mà còn chú tâm vào việc xây dựng nền móng giáo dục, thành lập Quốc Tử Giám (một kiểu trường đại học ngày nay) vào năm 1077. Ngài trị vì được 56 năm, trở thành vị vua ở ngôi lâu nhất trong sử Việt và ngài cũng là vị vua độc nhất để lại di chiếu không cho xây lăng mộ.
Đọc lại lịch sử Việt Nam, không ai là không cảm thấy ngậm ngùi khi nghĩ đến vận mệnh của đất nước. Là một nước “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”, dân tộc Việt đã xuất hiện hàng loạt các đấng minh quân, văn thần, võ thánh, mang lại thanh bình thịnh trị cho đất nước, khiến cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc phải nhiều lần từ bỏ dã tâm xâm lược.
Thế nhưng gần 200 năm qua, nước Việt lại chìm đắm trong vòng suy vi điên đảo, thiếu vắng những người “yêu nước thương dân” như vua Lý Nhân Tông. Tệ hại hơn nữa là sau hơn 74 năm bị cộng sản cai trị, nền tảng đạo đức trong xã hội VN bị hủy diệt gần như tận gốc. Nếu nhìn đảng CSVN từ trên xuống dưới, chỉ thấy nhung nhúc những con sâu bọ đã và đang đục khoét tài nguyên, luôn múa may quay cuồng như những tên hề trên sân khấu trong khi đất nước đang từng bước, từng bước trở thành một quận huyện của Tàu cộng. Rồi đây, con dân Việt nhiều thế hệ sẽ phải sống trong cảnh lầm than trong thời kỳ nô lệ mới, nếu tuổi trẻ VN không biết noi gương sáng của các bậc tiền nhân để “vùng lên cứu nước”!
No comments:
Post a Comment