Thứ Bảy, ngày 19.09.2015
Kính thưa quý thính giả, một nhà thơ nổi tiếng, thơ của ông dù viết theo thể loại nào (hành, dao, thán, từ…), dù mang nội dung cảm hoài, ngôn chí hay thù tạc, tất cả đều có văn pháp giản dị, ý tứ thâm sâu, chữ nghĩa chọn lọc, mang tính hiện thực cao, chứa đựng tinh thần yêu nước, thương dân, hết lòng vì bè bạn”. Trong tiết mục “Danh Nhân Nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gởi đến quý thính giả bài “Tùng Thiện Vương” của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay
Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán,
Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường.
Nghĩa là:
Văn như hai ông Siêu và Quát thì thời Tiền Hán phải thua.
Thơ hay như Tùng và Tuy thì thời Thịnh Đường còn kém.
Đó là hai câu thơ mà các bậc lão nho vào giữa thế kỷ thứ 19 cho là
của vua Tự Đức, với hàm ý so sánh và khen ngợi văn tài của Phó bảng
Nguyễn Văn Siêu và Cử nhân Cao Bá Quát, cùng thơ của Tùng Thiện Vương và
Tuy Lý Vương.
Tùng Thiện Vương tên thật là Nguyễn Phúc Miên Thẩm, tự là Trọng Uyên,
hiệu là Thương Sơn và Bạch Hào Tử. Tùng Thiện Vương sinh ngày
11/12/1819 tại cung Thanh Hòa trong cấm thành Huế. Ông là con thứ 10 của
vua Minh Mạng và bà Thục Tần Nguyễn Thị Bảo.
Tùng Thiện Vương là người thông minh hiếu học, học rộng hiểu sâu, lời
nói điển nhã và nổi tiếng về thơ văn. Từ năm 7 tuổi, Tùng Thiện Vương
đã theo học thơ, năm 12 tuổi đã làm gần 2000 bài thi phú, có bài dài đến
162 vần thơ.
Là hoàng thân quốc thích nên lúc sinh thời Tùng Thiện Vương không đi
thi như các Nho sĩ khác, tuy nhiên về tài năng, nhất là tài làm thơ phú
thì khó ai bì kịp và được gọi thân mật là Thi Ông.
Nguyễn Đắc Xuân, một nhà nghiên cứu về Huế, người trọng nghề nông cho
rằng: "Thơ Tùng Thiện Vương mấy ngàn bài đều chan chứa tình đồng ruộng
và nỗi thông cảm sâu sắc với số phận khổ ải của người dân lao động".
Tuy Lý Vương lại có nhận xét: "Thi văn của Tùng Thiện Vương như có
hoa giữa núi, như mây mỏng trên trời. Vẻ đẹp ở tinh thần, mỗi câu có một
họa ý, mỗi chữ có một nhạc âm".
Còn nhà nghiên cứu Ưng Trình thì nói rằng: "Chưa đầy 30 tuổi, cây bút
đã rung động rừng Nho, chẳng những đã khuất phục được danh sĩ nhà Thanh
mà còn truy chiếm được địa vị tối cao đời thịnh Đường nữa... Văn chương
ấy đúng là quốc hóa tinh tường".
Tùng Thiện vương có các tác phẩm nổi tiếng như: Thương Sơn thi tập,
Thương Sơn từ tập, Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn ngoại tập, Thương
Sơn văn di, Tịnh y ký, Thức Cốc biên, Lão sinh thường đàm, Lịch đại đế
vương thống hệ... Những trước tác của ông đều được khắc in bằng mộc bản.
Hiện nay, tại phủ thờ Tùng Thiện Vương còn lưu giữ gần 1000 mộc bản
khắc in các tác phẩm của Thi Ông, được hậu duệ của ông xem là vật gia
bảo, giữ gìn rất cẩn trọng.
Năm 1929, vua Bảo Đại truy phong ông là Tùng Thiện Vương, tước vị mà
ngày nay nhiều người gọi. Di tích phủ Tùng Thiện Vương tọa lạc tại số 91
đường Phan Đình Phùng, phường Vĩnh Ninh, thành phố Huế. Lăng Tùng Thiện
Vương ở gần chùa Từ Hiếu, Huế. Và hiện nay có nhiều con đường và trường
học mang tên ông.
* * *
Xuất thân hoàng tộc nhà Nguyễn, nhưng từ khi còn trẻ, Tùng Thiện
Vương Miên Thẩm luôn quan tâm đến đời sống cơ cực của người dân, với
hàng chục bài thơ viết về những thiên tai thảm họa mà người dân phải
gánh chịu như lũ lụt, hạn hán và thậm chí là tai họa hổ về làng cắn thú
cắn người. Chẳng hạn như trong bài thơ "Nam Định hải dật", nói về thảm
họa sóng thần:
Vì đâu nước biển tràn lên,
Để dân ven biển chết chìm trên khô.
Muôn nhà sóng bạc cuốn xô,
Lửa ma tan giữa mịt mù khí âm...
Nhưng không chỉ có lòng thương dân, Tùng Thiện Vương Miên Thẩm còn
đau lòng trước sự xâm lược của quân Pháp nhưng cả triều đình tỏ ra bất
lực trong bối cảnh nước mất nhà tan:
Bọn Hồ thực hiện mưu ma,
Các quan tướng soái thật là phụ ơn...
Tàu thuyền nay chỉ còn tàn lửa,
Tiếng oan hồn nức nở sóng trôi....
Hay:
Lòng đau cầm nước mắt,
Muốn nói chẳng thành lời.
Khen Ngụy Giáng hòa nghị,
Bàn như vậy rất sai!
Và ông đã tỏ ra thất vọng khi vua Tự Đức chấp nhận nghị hòa với quân Pháp:
Nhà vua đã muốn hòa cùng giặc,
Còn thuyết làm chi việc phục thù?
Hai câu thơ này đã cho thấy là trước khi có các vị vua Hàm Nghi và
Duy Tân, hoàng tộc nhà Nguyễn cũng sản sinh ra những người có tấm lòng
yêu nước thương dân, luôn trăn trở trước vận mệnh đất nước. Rất tiếc,
Tùng Thiện Vương Miên Thẩm chỉ là một thi sĩ nên chỉ biết gửi niềm uất
hận của mình vào các câu thơ. Ông cũng không được kế thừa ngai vàng để
thực hiện các hoài bão của mình.
Nhưng ít nhất thì ông cũng được lưu danh trong dòng lịch sử nước
Việt, không chỉ vì văn tài mà còn là một người biết đau lòng trước sự cơ
cực của dân chúng và nỗi nhục mất nước!
Việt Thái
No comments:
Post a Comment