Thứ Năm, ngày 07.08.2014
Muốn thoát khỏi vòng kim cô kềm tỏa
của Trung Quốc, dân tộc Việt cần dân chủ hóa, đưa Trung Quốc ra tòa án
quốc tế về tranh chấp Biển Đông và liên minh kinh tế lẫn quân sự với Hoa
Kỳ. Tuy nhiên ngày nào họ còn ngự trị trên đầu cổ nhân dân thì ngày đó
CSVN còn tiếp tục đầu hàng Trung Quốc. Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe
phần Bình Luận của Nguyễn Hưng Quốc... với tựa đề: " Việt Nam cần làm
gì?" sẽ được Thanh Bình trình bày để kết thúc chương trình phát thanh
DLSN tối hôm nay.
Trung Quốc đã rút giàn khoan HD-981 trước kỳ hạn (vốn dự trù vào giữa
tháng 8). Có nhiều giả thuyết khác nhau được đưa ra để giải thích quyết
định của họ: Một, công tác thăm dò của họ đã hoàn tất; hai, sợ bão; ba,
để tránh bị đả kích trong cuộc hội nghị Ngoại trưởng thường niên của
Điễn đàn An ninh Khu vực ASEAN sắp tới; bốn, để tránh bị chính quyền
Việt Nam kiện trước Liên Hiệp Quốc; và, năm, tránh sức ép từ dư luận
quốc tế, đặc biệt, tránh việc thúc đẩy Mỹ, Nhật và Úc hình thành một
liên minh quân sự vừa để giúp Việt Nam vừa để ngăn chận Trung Quốc bành
trướng ở Biển Đông.
Bất kể vì lý do gì, việc Trung Quốc cho rút giàn khoan về nước cũng
là việc rất đáng mừng đối với giới lãnh đạo Việt Nam: Họ trút được một
gánh nặng rất lớn, không chừng là lớn nhất kể từ sau cuộc chiến tranh ở
biên giới Việt Hoa năm 1979.
Tránh được gánh nặng ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là Việt Nam có
thể ung dung hưởng thái bình. Hầu như chắc chắn là Trung Quốc, một lúc
nào đó, sẽ mang giàn khoan sang để tiếp tục thăm dò dầu khí trên Biển
Đông, ngay trên thềm lục địa Việt Nam.
Nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục mang giàn khoan sang thềm lục địa Việt
Nam, họ có lợi gì? Họ có một cái lợi lớn: dần dần hợp pháp hóa chủ quyền
của họ trên Biển Đông. Ở Việt Nam, người ta hay nói, trong cuộc tranh
giành Biển Đông với Trung Quốc, có hai yếu tố quan trọng: lịch sử và
pháp lý. Thật ra, cả hai là một: các bằng chứng lịch sử sẽ trở thành
những bằng chứng về pháp lý. Người ta tin là nếu Việt Nam đưa ra nhiều
tài liệu cổ, bản đồ cổ trong đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên
Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam sẽ được xem là có lý hơn. Tuy nhiên, đó
chỉ là một ảo tưởng.
Ngoài công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận chủ quyền của Trung
Quốc trên Hoàng Sa và Trường Sa, còn một vấn đề khác nữa: cái lý bao giờ
cũng thuộc về kẻ mạnh. Hầu như ai cũng biết, mọi phán quyết của tòa án
quốc tế đều vô hiệu đối với các nước lớn, cỡ như Trung Quốc. Không có
một thế lực quốc tế nào có thể bắt buộc Trung Quốc phải tuân theo một án
lệnh kiểu như vậy cả.
Trong các cuộc tranh chấp lãnh thổ, ngoài yếu tố lịch sử và pháp lý,
còn có một yếu tố khác: thói quen. Ngay cả khi tất cả các tài liệu lịch
sử đều chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam nhưng tàu bè
và giàn khoan của Trung Quốc cứ đi lại nhiều lần và Việt Nam không phản
đối gì cả, dần dần người ta cũng chấp nhận, dù một cách mặc nhiên, đảo
và biển ấy là của Trung Quốc.
Bởi vậy, điều nhà cầm quyền cần làm, và làm thật gấp hiện nay, là
chuẩn bị một chiến lược để bảo vệ Trường Sa và Biển Đông. Để có hiệu
quả, điều kiện đầu tiên là giới lãnh đạo phải thống nhất với nhau. Trong
mấy tháng vừa qua, hầu như tất cả giới quan sát quốc tế đều đồng ý với
nhau là ngay cả Bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam cũng còn bị phân hoá
nặng nề. Thành ra người ta không có một tiếng nói chung nào cả. Người
nói thế này người nói thế kia, cuối cùng, thế giới, và cả dân chúng Việt
Nam nữa, cũng không biết là họ thực sự muốn gì.
Điều kiện thứ hai là phải gấp rút tạo thế liên minh với bên ngoài.
Một mình Việt Nam chắc chắn không phải là đối thủ của Trung Quốc
Cái gọi là liên minh với bên ngoài ấy có hai khả năng:
Một, liên minh với các nước cùng tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc
(và có khi, tranh chấp với cả Việt Nam), bao gồm ba nước chính:
Malaysia, Philippines và Brunei. Có điều, hầu như ai cũng nhận thấy một
liên minh như thế chỉ có thể được dùng để tiến hành đấu tranh với Trung
Quốc trên mặt trận pháp lý chứ không phải là bằng quân sự. Về quân sự,
cả ba nước hợp lại vẫn không phải là đối thủ của Trung Quốc.
Hai, liên minh với các cường quốc của châu Á - Thái Bình Dương, từ
Nhật Bản đến Hàn Quốc và Úc, và sau đó, là Mỹ. Một liên minh như vậy,
nếu thành hiện thực, mới thực sự mạnh mẽ và hiệu quả. Tuy nhiên, vấn đề
là: Liệu một liên minh lý tưởng như vậy có thể thực hiện được hay không?
Nhiều người ở Việt Nam có vẻ tin chắc là được. Thật ra, để có một liên
minh quốc tế, người ta cần nhiều điều kiện nhưng quan trọng nhất là phải
tìm ra được những điểm chung. Có hai loại điểm chung: quyền lợi và giá
trị.
Giữa Việt Nam và Mỹ cũng như các cường quốc trong khu vực và Tây
phương có một điểm chung về quyền lợi rất rõ: đó là Biển Đông, một trong
những con đường hàng hải tấp nập và quan trọng nhất trên thế giới. Tuy
nhiên, các điểm chung về quyền lợi hiếm khi tạo và giữ được liên minh
lâu dài. Yếu tố chung quan trọng hơn, nếu không muốn nói là quan trọng
nhất, để tạo và duy trì liên minh giữa hai hoặc nhiều quốc gia với nhau
chính là những điểm chung trong hệ thống giá trị của các nước.
Việt Nam hiện nay có thể chia sẻ một số quyền lợi với các nước khác,
nhưng lại hoàn toàn không chia sẻ các bảng giá trị với Tây phương. Đó
chính là trở ngại lớn nhất của Việt Nam trong việc bắt tay với Mỹ hay
bất cứ quốc gia tự do nào trên thế giới. Không sẵn sàng vượt qua trở
ngại này, đến lần sau, khi Trung Quốc mang giàn khoan trở lại thềm lục
địa Việt Nam, Việt Nam cũng chỉ làm được cái điều họ làm vừa rồi: xúi
dân mang tàu đánh cá ra chạy lờn vờn và phun nước vào các tàu hải quân
và hải giám của Trung Quốc. Không có gì khác.
Không có gì khác ngoài một sự đầu hàng.
Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment