Saturday, November 11, 2017

Thủ lãnh Tống Duy Tân

Danh Nhân Nước Việt

Nhị kim thủy liễu tiên sinh trái
Tự cổ do truyền bất tử danh
Nghĩa là:
“Món nọ tiên sinh nay mới trả
Cái danh bất tử trước còn truyền”
Đó là 2 câu đối của Tống Duy Tân viết trước ngày bị xử tử.
Tống Duy Tân sinh tại làng Bồng Trung, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm1870, ông đỗ cử nhân và đỗ tiến sĩnăm1875. Ông được bổ làm Tri huyện, về sau làm Đốc học Thanh Hóa, sau cùng giữ chức Thương biện Tỉnh vụ.

Tháng 7 năm 1885, hưởng ứng hịch Cần Vương, ôngtham gia phong trào, được vua Hàm Nghi phong làm Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa vàgiao cho ông xây dựng chiến khu Ba Đình.
Năm 1886, ông và Cao Điển nhận lệnh của thủ lãnh Đinh Công Tráng đến Phi Lailập căn cứ, nhằm hỗ trợ cho Ba Đình. Ngoài ra, ông còn chuẩn bị lực lượng và lập căn cứ Hùng Lĩnh,kháng Pháp ngay tại quê hương mình. Căn cứ này nằm ở vùng thượng nguồn sông Mã, thuộc
Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
Đầu năm 1887, Pháp kéo đại quân đến đàn áp nghĩa quân, căn cứ Ba Đình và căn cứ Mã Cao bị thất thủ. Các thủ lãnh Đinh Công Tráng, Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạtlần lượt hy sinh, Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toạitự sát.
Trước tình thế hiểm nguy, ôngcùng với Cao Điển, Cầm Bá Thước, Hà Văn Nhọ chuyển quân về căn cứ Hùng Lĩnh. Khi nghĩa quân Hùng Lĩnh mở vài trận tập kích đồn lũy Pháp thì bị Pháp đưa quân đến bao vây.
Nhận thấy lực lượng tại Hùng Lĩnh bị cô thế và yếu sức, ông liền ra Bắc và qua Trung Hoa để gặp gỡ các sĩ phu yêu nước, hầu tìm nguồn hỗ trợ và liên kết với các lực lượng chống Pháp khác.
Năm 1888, Pháp bắt được vua Hàm Nghi và đưa đi đày ở Algerie. Tại Quảng Đông,ônggặp Tôn Thất Thuyết,tướng Thuyết khuyên ông trở về Thanh Hóa tiếp tục chống Pháp.
Đầu năm 1889, ông về đến quê nhà tập hợp lại lực lượng, ông trở thành người lãnh đạonghĩa quân tại Hùng Lĩnh.Ông cùng Cao Điển và Cầm Bá Thước mở rộng địa bàn hoạt động lên tận vùng hữu ngạn và tả ngạn sông Mã, kết minhvới Đề Kiều-Đốc Ngữ ở vùng hạ lưu sông Đà và Phan Đình Phùng ở vùng rừng núi Nghệ An-Hà Tĩnh.
Nghe tin Tống Duy Tânlập liên minh, ngày 8/10/1889, quân Pháp ra lệnh cho thiếu úy Morfond dẫn quân từ đồn Nông Cống đến thám sát thì chạm súng với nghĩa quân Hùng Lĩnh. Sau trận đánh,Thiếu úy Morfond cùng 4 lính Pháp và 4 lính khố xanh tử trận.
Ngày 22/10/1889, Đại tá Barbaret dẫn 185 quân có trang bị đại bác từ Thanh Hóa kéo đến tấn công. Sau một ngày kịch chiến, ông rútquân về phía Bắc Phố Cát, rồi sang Vạn Lại.
Tuần lễ sau, quân Pháp điều động đại quân tấn công hai cứ điểm,ông phải vừa chống đỡ vừa rút lui để bảo toàn lực lượng.
Trong năm 1890, ôngchỉ huy tập kích quân Pháp nhiều trận tại làng Kẽm,tại Vân Đồn đánh tan đạo quân do Công sứ Pháp ở Thanh Hóa chỉ huy, tạiYên Lãng ở Xuân Yên-Thọ Xuân.
Sáng ngày 26/4/1890, quân Pháp bắt đầu tấn công tiền đồn Na Lung của Cao Điển.
Ngày 29/5/1890, Cao Điển đánh tan quân Pháp ở trận Thanh Khoái.Do bị thiệt hại nặng, quân Pháp tập trung lực lượng mở cuộc truy quét quy mô nên lực lượng nghĩa quân phải chiến đấy gay go và gian khổ hơn.
Đầu năm 1891, ôngchuyển quân từ An Lẫm lên Lang Vinh thì bị quân Pháp tấn công. Mặc dù chống trả quyết liệt, nhưng cuối cùng ông cũng phải bỏ hết các công sự đang xây dựng, dẫn tàn quân rút về Hòn Mông, vùng Trịnh Vạn.
Tháng 3/1892 từ sông Đà, Đốc Ngữ dẫn quân vượt sông Mã vào Thanh Hóa. Sau khi bàn bạc, ông và Đốc Ngữ cùng hợp quân tấn công quân Pháp ở hang Niên Kỷ. Mặc dù thu được một số thắng lợi, nhưng cũng không thể cứu vãn được tình thế trước các cuộc bao vây và tấn côngngày càng ác liệt của quân Pháp.
Tháng 9 năm 1892, ông tuyên bố giải tán lực lượng nghĩa quân để tránh thêm thương vong. Ông về ẩn náu ở hang Niên Kỷ, Cao Điển cùng một số thuộc hạ đóng trên một ngọn đồi gần bên. Ít lâu sau, án sát Hà Tĩnh tên Cao Ngọc Lễ (cháu kêu ông bằng cậu) mật báo cho Pháp bao vây và bắt ông vào ngày 4/10/1892.
Biết không thể chiêu hàng, Pháp ra lệnh cho Tổng đốc Thanh Hóaxử tử ông trưa ngày23/11/1892, lúc đó ông 55 tuổi. Sau khi ông mất, cuộc khởi nghĩa kết thúc.
Nhân sĩ tỉnh Thanh Hóa có làm bài thơ và câu đối điếu bằng chữ Hánca tụng ông như sau:
Tự cổ anh hùng, thiết thạch can trường nan tận tả,
Đáo đầu sự thế, xuyên hà huyết lệ hạt năng lưu.
Nghĩa là:
“Từ trước anh hùng, dạ sắt gan vàng không xiết tả,
Đến cùng sự thế, máu sông lệ suối chảy sao trôi!”
*****
Do không được thông báo lễ đăng quang, nên Khâm sứ Pháp không thừa nhận vua Hàm Nghi. Khiquân Pháp dọa bắt vua Hàm Nghi thìThái sư Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công đồn Mang Cá.Cuộc tấn công thất bại vì vũ khí thô sơ, vua Hàm Nghi phải chạy ra Quảng Trị.
Tại Tân Sở, vua Hàm Nghi hạ chiếu “Cần Vương”, kêu gọi cả nước chống Pháp.
Hịch “Cần Vương”được nhiều sĩ phu và hàng ngàn thanh niên yêu nước hưởng ứng. Họ chấp nhận hy sinh thân mình để cứu nguy tổ quốc vàhọ đã chứng minh cho thế giới thấy rằng người Việt không hèn yếu và nhu nhược.
Tương tự như nhiều cuộc khởi nghĩa khác, cuộc khởi nghĩa của Tống Duy Tân cũng là một bằng chứng về tinh thần quật cường của dân tộc Việt trong công cuộc chống giặc ngoại xâm,dựng lại nền tự chủ.Chính vì thế, nhiều đường phố và trường học mang tên Tống Duy Tân trong nước mãi mãi là niềm hãnh diện của con dân nước Việt.
Việt Thái

No comments:

Post a Comment