Kính thưa quý thính giả,
Một người có tấm lòng yêu nước, chiến đấu đến giờ phút cuối cùng và đã hy sinh trong trận chiến chống thực dân Pháp. Ông là một nhân vật nổi tiếng được ghi danh vào sử sách, tên ông sống mãi trong tâm thức của con dân Việt.
Trong chuyên mục Danh nhân nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Lãnh binh Thăng tên là Nguyễn Ngọc Thăng, sinh năm 1798 tại làng Mỹ Thạnh, quận Tân An, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình nông dân. Thân phụ tên là ông Nguyễn Công, thân mẫu là bà Trần Thị Kiếm, gốc đều ở Quảng Nam.
Thuở nhỏ Nguyễn Ngọc Thăng ngoài việc chăm lo học chữ Hán, chữ Nho, ông còn hăng say luyện tập võ nghệ. Thời gian sau, khi đủ bản lãnh, ông đứng ra chiêu mộ dân trong vùng khai khẩn đất đai, lập đồn điền ở vùng Bảo Hựu, thuộc tỉnh Bến Tre ngày nay. Dưới thời vua Thiệu Trị, ông tình nguyện gia nhập vào đoàn quân của triều đình, giữ chức Cai Cơ. Đến thời vua Tự Đức, ông được thăng chức Lãnh binh.
-Ngày 1/9/1858, với ý đồ chiếm Huế, liên quân Pháp và Tây Ban Nha nổ súng đánh vào thành Đà Nẵng trước. Nhưng sau 5 tháng giao tranh, quân Pháp vẫn bị cầm chân tại nơi này vì gặp phải sự kháng cự dũng mãnh của quân triều Nguyễn.
Tướng chỉ huy quân Pháp là De Genouilly buộc phải thay đổi chiến thuật, rút 2 phần 3 quân số (khoảng 2 ngàn người) và 8 chiến thuyền tại mặt trận này chuyển vào đánh thành Gia Định, đồng thời cắt đường tiếp tế lương thực đến Huế.
-Ngày 10/2/1959, Pháp bắn đại bác vào Vũng Tàu và hôm sau đưa tàu chiến vào sông Cần Giờ, vừa di chuyển vừa tháo gỡ những chướng ngại vật và triệt hạ 12 đồn trại ở hai bên bờ sông, nên mãi đến chiều ngày 15/2, quân Pháp mới đến Hữu Bình.
-Ngày 16/2, tàu chiến Pháp dàn trận bắn phá và chiếm được đài chỉ huy, tiến sát thành Gia Định. Hôm sau, Pháp đưa quân đổ bộ đánh chiếm cửa Đông, Hộ đốc Võ Duy Ninh ra lệnh lui binh, bỏ lại hầu hết súng đạn, lương thực và hàng trăm chiến thuyền gỗ trên sông Thị Nghè.
-Ngày 8/3, quân Pháp phá nhiều đoạn trường thành, đốt kho gạo chính (kho này đủ nuôi 1 ngàn quân trong một năm) và dinh thự trong thành. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết lại 2 câu:
Bến Nghé của tiền, tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói, nhuộm màu mây.
Mặc dù chiếm được thành Gia Định, nhưng quân Pháp phải đối phó với nghĩa quân hoạt động phục kích ở khắp nơi, người dân cũng tự thiêu hủy nhà cửa, di tản vì quyết không hợp tác với quân Pháp.
Nghe tin Gia Định thất thủ, triều đình Huế phái Thượng thư bộ Hộ là Tôn Thất Hiệp mang 1500 quân vào đóng ở Biên Hòa, còn Lãnh binh Thăng được lệnh trấn giữ vùng Chùa Cây Mai. Tại đây, ông cho củng cố đồn lũy, nhưng do vũ khí của Pháp quá mạnh nên chỉ sau một thời gian cầm cự, ông cũng phải lui binh. Đến tháng 7/1860, ông chỉ huy 2.000 quân đánh vào các đồn lũy của quân Pháp.
-Ngày 24/2/1860, ông cùng Nguyễn Tri Phương tấn công Pháp ở đồn Chí Hòa. Sau đó, ông lui xuống vùng Bến Lức, Tân An, nơi tiếp giáp với Gia Định và Định Tường lập căn cứ.
Sau khi chiếm thành Gia Định và đồn Chí Hòa xong, Pháp xua quân chiếm dần 3 tỉnh Đồng Nai, Gia Định và Định Tường. Trong những trận đánh ác liệt tại nơi này, Lãnh binh Thăng phối hợp với Đỗ Trịnh Thoại, Thủ khoa Huân, Thiên hộ Dương, mở nhiều cuộc công kích suốt 2 năm 1862 và 1863, khiến cho Pháp không kiểm soát được vùng nông thôn của 3 tỉnh miền Đông. Nhưng vì quân số quá ít với vũ khí thô sơ, nên chẳng bao lâu Định Tường rơi vào tay Pháp. Lãnh binh Thăng rút về Gò Công.
-Ngày 5/6/1862, triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất nhượng 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn cho Pháp. Vua Tự Đức xuống chiếu bãi binh. Không đồng ý, Trương Công Định vẫn ở lại Gò Công kháng Pháp, nên Lãnh binh Thăng đưa quân về dưới trướng Trương Công Định chống Pháp.
-Ngày 19/8/1864, tên Huỳnh Công Tấn phản bội, dẫn đường cho quân Pháp đánh úp bản doanh. Trương Công Định bị trọng thương, rút gươm tự sát tại Ao Dinh, Gò Công, vào rạng sáng ngày 20/8/1864.
-Ngày 27/6/1866, tại mặt trận sông Soài Rạp, Lãnh binh Thăng bị trúng đạn, tử thương. Lợi dụng đêm tối, nghĩa quân dùng ghe đưa thi hài ông về Mỹ Lồng, huyện Giồng Trôm an táng.
Hiện tại đình làng Nhơn Hòa và Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm đều có thờ Lãnh binh Thăng. Hàng năm đều tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể.
*****
Những bậc anh hùng đầu tiên của vùng đất Phương Nam như Trương Công Định, Thủ khoa Huân, Thiên hộ Dương, Đốc binh Kiều, Lãnh binh Thăng.v.v. được vinh danh qua câu hát:
Rồng chầu ngoài Huế.
Ngựa tế Đồng Nai.
Nước sông trong, không lộn nước sông ngoài.
Thương người xa xứ lạc loài tới đây.
Những người hùng này đã chứng minh cho thực dân Pháp thấy, dân tộc Việt không nhu nhược và yếu hèn. Đây là niềm tự hào của người Việt hôm nay, khác với đảng CSVN hèn nhát, luôn ra rả tự xưng là anh hùng, nhưng không dám lên tiếng phản đối Tàu Cộng xâm nhập hải phận, phá hủy ghe thuyền và giết hại ngư dân Việt.
Thành kính dâng 3 nén hương lòng, để tưởng nhớ đến những anh hùng của vùng đất Phương Nam đã vị quốc vong thân.
No comments:
Post a Comment