Trong bài diễn văn khai mạc buổi lễ 30 tháng 4, 2025 tại Sài Gòn vừa qua, Tổng Bí Thư đảng CSVN đã tuyên bố “Triển khai mạnh mẽ chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc với tinh thần chúng ta đều mang dòng máu Lạc Hồng, đều là anh em ruột thịt, ‘như cây một cội, như con một nhà”. Thế nhưng liệu trong hoàn cảnh đất nước ngày nay, chính sách này có thể thực hiện được không?
Kính mời quý thính giả theo dõi bài Quan Điểm của Lực Lượng Cứu Quốc về sự kiện này với tựa đề “Không Thể Có “Hòa Hợp Dân Tộc” Khi Đất Nước Còn Bị Đảng CSVN Thống Trị”, do HẢI NGUYÊN trình bày sau đây ...
Sự kiện “Hoà Hợp Dân Tộc” mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tuyên bố từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay thực chất chỉ là một khẩu hiệu trống rỗng, không mang ý nghĩa thực sự về sự đoàn kết dân tộc. Trên lý thuyết, họ vẫn tuyên bố trung thành với chủ nghĩa Cộng sản, nhưng thực tế, cái gọi là “chủ nghĩa” ấy đã hoàn toàn lỗi thời và bị quẳng vào thùng rác lịch sử sau sự sụp đổ của khối Cộng sản Đông Âu và Liên Xô. Thay vì thừa nhận sự thất bại của học thuyết này, đảng Cộng sản Việt Nam lại dùng nó như một cái cớ để duy trì quyền lực độc tôn, ngăn chặn mọi nỗ lực dân chủ hóa và kiềm chế tự do tư tưởng của người dân.
Thật vậy, về lý thuyết, chủ nghĩa Cộng sản được xây dựng nhằm giải phóng giai cấp công nhân và thiết lập một xã hội không giai cấp, không bóc lột. Tuy nhiên, sau hơn một thế kỷ thực nghiệm, từ Nga Xô Viết đến Đông Âu, từ Cuba đến Việt Nam, chủ nghĩa này đã phơi bày bản chất không tưởng của nó. Thay vì tạo ra xã hội bình đẳng, các nước Cộng sản lại dựng lên chế độ toàn trị, nơi quyền lực tập trung vào tay một nhóm đảng trị, tạo điều kiện cho tham nhũng và lạm quyền phát triển. Những khẩu hiệu “đấu tranh giai cấp,” “xóa bỏ bóc lột” chỉ là những chiêu bài để che đậy sự thao túng và kiểm soát của một nhóm nhỏ trong đảng.
Thực tế, chủ nghĩa Cộng sản đã bị quẳng vào thùng rác lịch sử từ đầu thập niên 1990. Cuộc cách mạng dân chủ tại Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô năm 1991 đã đánh dấu sự cáo chung của mô hình Cộng sản chính thống. Tuy nhiên, thay vì rút ra bài học, đảng Cộng sản Việt Nam lại cố tình duy trì cái vỏ bọc Cộng sản để củng cố quyền lực. Họ tuyên bố thực hiện “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” – một mô hình vừa mơ hồ vừa phi lý. Thực chất, đây chỉ là sự kết hợp nửa vời giữa kinh tế tư bản và quyền lực đảng trị, nơi giới lãnh đạo tiếp tục ưu tiên lợi ích cá nhân.
Trong 50 năm qua, toàn cõi Việt Namdưới sự cai trị của đảng Cộng sản không hề có tự do dân chủ. Nhân quyền bị chà đạp, tiếng nói đối lập bị đàn áp và người dân chỉ là những con cờ trong tay giới cầm quyền. Sự tập trung quyền lực vào tay Đảng không chỉ dẫn đến tham nhũng tràn lan mà còn biến đất nước thành sân khấu bi hài kịch, nơi các quan chức trong Đảng đua nhau “hy sinh đời bố, củng cố đời con.” Tham nhũng trở thành căn bệnh mãn tính, ăn sâu vào mọi ngõ ngách của hệ thống công quyền. Mọi chiến dịch “chống tham nhũng” chỉ là cái cớ để thanh trừng phe cánh và tái phân chia quyền lực nội bộ.
Chiến dịch “đốt lò” của Nguyễn Phú Trọng là ví dụ điển hình. Dưới chiêu bài chống tham nhũng, ông ta thực chất chỉ nhằm thanh trừng các đối thủ chính trị, loại bỏ những quan chức không thuộc phe cánh của mình. Những kẻ thân tín hoặc thuộc nhóm quyền lực cốt lõi vẫn tiếp tục nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, trong khi những người “không phe cánh” bị “thiêu sống” dưới cái lò “chống tham nhũng.” Đây không phải là chống tham nhũng thực sự mà chỉ là sự tái sắp xếp quyền lực nhằm củng cố quyền lực cá nhân.
Về mặt kinh tế, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản tự hào về tốc độ tăng trưởng cao. Thế nhưng sự phát triển này không bền vững, chỉ dựa vào vốn đầu tư nước ngoài và xuất khẩu lao động. Nợ công tăng cao, sự phụ thuộc vào các tập đoàn quốc doanh kém hiệu quả khiến nền kinh tế Việt Nam trở nên mong manh trước những biến động toàn cầu. Trong khi đó, tầng lớp dân nghèo ở nông thôn và công nhân thành thị vẫn vật lộn với cuộc sống khó khăn, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng.
Những phân tích trên cho thấy rằng “hoà hợp dân tộc” dưới chế độ Cộng sản Việt Nam chỉ là khẩu hiệu sáo rỗng, không có cơ sở thực tế. Làm sao có thể nói đến “hoà hợp” khi những người bất đồng chính kiến vẫn bị bắt bớ, khi các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hoà vẫn bị kỳ thị, khi mọi tổ chức đối lập đều bị cấm đoán? Nếu thực sự muốn có sự hoà hợp dân tộc, đảng Cộng sản Việt Nam cần phải từ bỏ cái vỏ bọc Cộng sản đã lỗi thời, thừa nhận rằng chủ nghĩa này đã chết từ lâu. Họ cần mở rộng dân chủ, cho phép các tổ chức chính trị đối lập hoạt động công khai, thiết lập một nền pháp trị thực sự thay cho hệ thống pháp luật mang tính đàn áp hiện nay.
Chỉ khi nào quyền lực thuộc về nhân dân, khi nào người dân có quyền tự do bầu cử, chọn lựa người lãnh đạo, thì khi đó mới có thể nói đến sự hoà hợp dân tộc thực sự. Nếu không, mọi lời kêu gọi “hoà hợp” chỉ là sự giả dối, một cái cớ để duy trì ngôi vị lãnh đạo độc tôn và vĩnh viễn của đảng Cộng sản Việt Nam./.
No comments:
Post a Comment