Cách nay nửa thế kỷ, chính quyền Việt Nam Cộng Hòađã không thể đứng vững khi đồng minh Hoa Kỳ giải kết tại Việt Nam. Bài học đau thương này để lại nhiều nỗi ám ảnh, cho dù quá khứ đã được khép lại sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước được thực hiện từ năm 1995 cách nay đúng 30 năm. Lịch sử có lập lại không, với việc Nga xâm chiếm Ukraine và Hoa Kỳ là một đồng minh then chốt của quốc gia này. Mời quý thính giả theo dõi bài Bình Luận của tác giả Giao Phương Trần, thành viên Ban Biên Tập đài ĐLSN với tựa đề: “Việt Nam Cộng Hòa 1975 và Ukraine Hôm Nay” qua sự trình bày của Vân Khanh để tiếp nối chương trình phát thanh tối hôm nay.
Giao Phương Trần
Trong quá khứ, Hoa Kỳ đã nhiều lần hỗ trợ các quốc gia đồng minh chống lại sự xâm lăng từ bên ngoài. Hai ví dụ điển hình là sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam Cộng Hòa chống Cộng Sản Bắc Việt và sự hỗ trợ hiện nay dành cho Ukraine trong cuộc chiến chống lại Nga. Dù bối cảnh lịch sử, động lực địa chính trị và chiến lược quân sự khác nhau, nhưng có nhiều điểm tương đồng trong cách Hoa Kỳ can dự vào hai cuộc xung đột này. Tuy nhiên, sự khác biệt ở mức độ can thiệp quân sự, sự hỗ trợ chính trị và cam kết lâu dài đã định hình kết cục của hai cuộc chiến theo những hướng khác nhau.
Việt Nam Cộng Hòa tồn tại từ năm 1955 đến năm 1975, trong thời kỳ tột điểm của chiến tranh lạnh. Hoa Kỳ coi miền Nam Việt Nam là một chiến trường quan trọng trong cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản, dựa trên thuyết domino - cho rằng nếu một quốc gia ở Đông Nam Á rơi vào tay cộng sản, các nước khác sẽ lần lượt theo sau. Bắc Việt Nam, với sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Cộng, muốn áp đặt toàn cõi đất nước dưới sự cai trị của chế độ cộng sản,dẫn đến một cuộc chiến kéo dài và tàn khốc.
Trong khi đó, Ukraine giành độc lập sau sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991, nhưng Nga luôn tìm cách duy trì ảnh hưởng đối với nước này. Sự việc lên đến tột điểm khi Nga sáp nhập Crimea năm 2014 và mở cuộc xâm lăngtoàn diện vào năm 2022. Khác với chiến tranh Việt Nam, vốn là một phần của cuộc đối đầu ý thức hệ giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, cuộc chiến ở Ukraine chủ yếu được định hình bởi tham vọng của Nga nhằm khôi phục quyền lực đối với các lãnh thổ thuộc Liên Xô cũ.
Một khác biệt quan trọng giữa hai trường hợp là mức độ can thiệp quân sự của Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, ban đầu Hoa Kỳ chỉ cung cấp hỗ trợ tài chính và cố vấn, nhưng dần dần leo thang thành một cuộc can thiệp quân sự toàn diện. Đã có lúchơn 500.000 lính Mỹ được gởi đến tham chiến trực tiếp. Cuộc chiến đã diễn ra với những chiến dịch ném bom quy mô lớn, các hoạt động chống du kích và giao tranh ác liệt, nhưng cuối cùng Hoa Kỳ và quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn không thể giành chiến thắng quyết định trước quân Bắc Việt và lực lượng được gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” nhưng thực chất là lực lượng Cộng Sản nằm vùng. Sau Hiệp định Paris năm 1973, Mỹ rút quân, trong khi Nga Sô và Trung Cộng tiếp tục yểm trợ Bắc Việt, không những quân nhu và vũ khí, mà còn cả về mặt truyên truyền, đã khiến miền Nam Việt Nam không đủ khả năng chống cự, dẫn đến sự sụp đổ vào tháng 4 năm 1975.
Ngược lại, Hoa Kỳ hỗ trợ Ukraine theo cách gián tiếp. Chính quyền Biden cùng các đồng minh NATO cung cấp viện trợ quân sự lớn - bao gồm vũ khí hiện đại, tình báo và hỗ trợ tài chính - nhưng không huy động binh sĩ trực tiếp tham chiến.
Một điểm tương đồng giữa hai cuộc chiến là những thách thức chính trị nội bộ và sự thay đổi trong dư luận Hoa Kỳ. Do nỗ lực tuyên truyền khôn khéo và qui mô của cả Khối Cộng, chiến tranh Việt Nam dần trở nên không được ủng hộ trong nước Mỹ, với các cuộc biểu tình quy mô lớn, sự chia rẽ chính trị và sự mất lòng tin vào chính phủ. Đến đầu những năm 1970, nhiều người Mỹ tin rằng không thể thắng cuộc chiến, dẫn đến chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Tổng thống Nixon - chuyển giao trách nhiệm chiến đấu cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Trong trường hợp Ukraine, ban đầu sự ủng hộ của công chúng và chính trị Hoa Kỳ rất mạnh mẽ, nhưng dần dà có dấu hiệu suy giảm, nhất là việc thay đổi chủ nhân Tòa Bạch Ốc. Trong khi cuộc xâm lược của Nga ban đầu thúc đẩy sự ủng hộ của lưỡng đảng đối với viện trợ quân sự, một số chính trị gia, đặc biệt là từ đảng Cộng Hòa, bắt đầu hoài nghi về việc tiếp tục tài trợ.
Một khác biệt quan trọng giữa Việt Nam Cộng Hòa và Ukrainelà Việt Nam Cộng Hòa phải đối đầu không chỉ về mặt quân sự mà về cả mặt trận chiến tranh tuyên truyền và tâm lý của cả một hệ thống Cộng Sản toàn cầu.Nói cách khác, Việt Nam Cộng Hòa không chỉ đối đầu với quân Bắc Việt và Việt cộng trong Nạm mà cả toàn Khối Cộng trên thế giới! Vì vậy, khi Mỹ rút quân, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã không thể tồn tại.
Trong khi đó, Ukraine đã thể hiện khả năng kháng cự mạnh mẽ. Tổng thống Volodymyr Zelenskyy duy trì được sự ủng hộ rộng rãi trong nước và quốc tế, giúp đất nước đoàn kết chống lại Nga. Quân đội Ukraine đã tận dụng hiệu quả vũ khí do phương Tây cung cấp, đạt được những chiến thắng quan trọng như đẩy lùi quân Nga khỏi Kyiv và tiến hành các cuộc phản công tại các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng.
Sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa cách nay nửa thế kỷ là một lời cảnh báo về hậu quả khi Hoa Kỳ rút hỗ trợ khỏi một đồng minh phụ thuộc. Sau khi Quốc hội Mỹ cắt viện trợ quân sự, lực lượng Bắc Việt Nam nhanh chóng mở cuộc tổng tấn công, toàn diện dẫn đến sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa.
Việc so sánh sự hỗ trợ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam Cộng Hòa và Ukraine cho thấy những thách thức và bài học quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Kết cục của Ukraine sẽ phụ thuộc vào việc phương Tây có duy trì cam kết hỗ trợ lâu dài hay không, và lịch sử Việt Nam Cộng Hòa là một lời nhắc nhở nghiêm túc về hậu quả của việc từ bỏ một đồng minh quá sớm.
No comments:
Post a Comment