Kính thưa quý thính giả,
Hơn bốn trăm năm về trước một người sinh ra ở Thanh Hóa, nhưng lập nghiệp tại vùng đất Bình Định, chẳng những nổi tiếng về thơ văn, mà còn là một chiến lược gia và là một nhà quân sự lỗi lạc. Nhà Nguyễn công nhận ông là đệ nhất khai quốc công thần, thờ ông trong Thái Miếu. Về sau ông được vua Minh Mạng truy phong là Hoàng Quốc Công.
Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Công thần Đào Duy Từ” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt, để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Cha tên Đào Duy Hán (xướng ca chuyên nghiệp) và mẹ là Vũ Kim Chi. Đào Duy Từ mồ côi cha từ lúc 5 tuổi, được mẹ nuôi ăn học. Nhờ thông minh, năm 14 tuổi Đào Duy Từ được vào học ở trường của Hương Cống Nguyễn Đức Khoa. Nhưng không được thi Hương, vì luật nhà Lê cấm con của đào kép vào trường thi, vì cho rằng họ là thành phần xướng ca vô loại. Mẹ của Duy Từ phải nhờ viên xã trưởng tên Lưu Minh Phương đổi họ Đào thành họ Vũ.
-Năm 1593, khoa thi Hương năm quý Tỵ, Duy Từ thi đậu Á Nguyên. Nhưng vì bài văn nổi tiếng nhất trường thi của ông bàn về cải cách chính trị, trái với ý của chúa Trịnh nên bộ Lễ truyền lệnh xóa tên Duy Từ và đuổi về nguyên quán. Nghe hung tin, mẹ Duy Từ tự vẫn, Duy Từ lâm bệnh nặng. Thời gian sau, Duy Từ hết bệnh, sinh sống bằng nghề dạy học.
-Năm 1625, Duy Từ trốn vào Nam (xứ Đàng Trong) chăn trâu cho phú hộ Chúc Trịnh Long để chờ đợi thời cơ. Khi con trai của phú hộ tên Chúc Hữu Minh mở Tùng Châu Thi Xã, Duy Từ được nhận làm Thư Đồng lo phục vụ các văn sĩ. Nhờ có tài ứng đối lưu loát và tinh thông sử sách, Duy Từ được Thi Xã mời vào giảng sách.
Nghe Chúc Trịnh Long kể về tài nghệ của Duy Từ, quan Khám lý Trần Đức Hòa (bạn của chúa Nguyễn Phúc Nguyên) đến tìm hiểu. Thấy Duy Từ có tài học rộng, ông mời về dạy học và gả con gái. Thời gian này, Đào Duy Từ thường ngâm bài “Ngọa Long Cương” bằng quốc âm. Trần Đức Hòa mang bài này cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên xem và giới thiệu về Đào Duy Từ. Xem xong, chúa Nguyễn biết Đào Duy Từ là người tài có chí lớn, liền triệu vào cung đàm đạo. Sau đó, phong Đào Duy Từ làm Nha úy Nội Tán, tước Lộc Khuê Hầu, trông coi việc quân cơ và được tham dự triều chính.
-Năm 1629, chúa Trịnh Tráng muốn xâm lấn miền Nam, sai Nguyễn Khắc Minh vào phong tước cho chúa Nguyễn, chủ ý là dò xét quân tình. Lúc này, Đào Duy Từ làm Tham tán Quân vụ khuyên chúa Nguyễn che dấu thực lực, nhận phong để hòa hoãn và xây đắp chiến lũy để phòng thủ.
-Năm 1630, triều đình giao cho ông thiết kế và chỉ đạo xây dựng 2 công trình phòng thủ quan trọng là Lũy Trường Dục là ở huyện Phong Lộc, và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình, trước nguy cơ tấn công của quân Trịnh.
-Năm 1634, ông bị bệnh và từ trần. Sau khi ông mất, chúa Nguyễn truy phong công thần, đặc tiến “Kim tử Vinh lộc Đại phu”.
*****
Công thần Đào Duy Từ là một danh thần về văn hóa và quân sự, ông là người giúp chúa Nguyễn xây dựng cơ nghiệp ở Đàng Trong. Sinh thời, ông sáng tác nhiều tác phẩm thơ văn và nhiều ca khúc có giá trị, kể cả một số điệu múa được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Ngoài ra, ông còn là người Việt đầu tiên làm thơ lục bát, là người có công phát triển nghành hát bội ở Đàng Trong, chính ông đã khởi thảo vở tuồng Sơn Hậu. Ông được xem là ông Tổ của việc đưa âm nhạc, điệu múa, hát bội vào cung đình, mà về sau gọi là “Nhã nhạc cung đình Huế”. Quan trọng hơn, chính ông là tác giả bộ sách quân sự mang tên “Hổ Trướng Khu Cơ” và sách văn học “Ngọc Long Cương Vãn”.
Sách sử có ghi lại giai thoại rằng, khi biết Đào Duy Từ đang phò chúa Nguyễn, chúa Trịnh lập mưu sai người mang vàng bạc, bí mật biếu tặng để lôi kéo ông về Đàng Ngoài với lá thư có 4 câu thơ:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng anh tiếc lắm thay!
Đào Duy Từ không nhận quà, và viết 6 câu phúc đáp:
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?
Chúa Trịnh đọc thơ biết khó lòng lôi kéo, nhưng thấy bài thơ của Đào Duy Từ chưa có câu kết, bèn cho người mang lễ vật nhiều hơn với lá thư hứa trọng dụng. Lần này, ông viết chỉ 2 câu trả lời dứt khoát, chấm dứt lời mời của chúa Trịnh:
Có lòng xin tạ ơn lòng,
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen!
Văn thần Nguyễn Trãi là khai quốc công thần thời Hậu Lê, còn Đào Duy Từ là khai quốc công thần của triều Nguyễn, cả hai đều tài giỏi và trung thành, được lưu danh sử sách. Hào kiệt của đất nước thời nào cũng có, họ luôn xuất hiện khi tổ quốc lâm nguy. Công cuộc đấu tranh chống lại chế độ độc tài cộng sản cũng đã và đang xuất hiện nhiều anh hùng và anh thư. Một khi chế độ cộng sản sụp đổ, ắt sẽ có trang sử mới để vinh danh những người con ưu tú của nước Việt.
No comments:
Post a Comment