Kính thưa quý thính giả, Liên minh Nga - Trung trong thời nay hay xa hơn một chút, trong thời chiến tranh lạnh, nhất là khi khối cộng sản Đông Âu do Liên Bang Xô Viết cầm đầu tan rả vào thập niên 90, có nhiều điểm tương đồng với “Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu” ngày xưa bên Trung Quốc. Mời quý thính giả nghe phần bình luận của tác giả Giao Phương Trần, thành viên Ban Biên Tập đài ĐLSN với tựa đề: “Thế Chiến Quốc Thế Xuân Thu Thời Nay”qua sự trình bày của Nguyên Khải để tiếp nối chương trình phát thanh tối hôm nay.
Giao Phương Trần
Cục diện địa chính trị hiện nay ngày càng thể hiện sự cạnh tranh phức tạp giữa Nga và Trung Quốc, gợi nhớ đến thời kỳ “Chiến Quốc” và “Xuân Thu” trong lịch sử Trung Hoa. Khi đó, các quốc gia liên tục thay đổi liên minh, thực hiện những chiến lược đối đầu và hợp tác nhằm mở rộng ảnh hưởng. Tương tự, giới quan sát quốc tế ngày nay nhận thấy rằng Nga và Trung Quốc, dù có vẻ như đang hợp tác chặt chẽ, vẫn đang tiến hành một cuộc chơi chiến lược đầy toan tính, vừa hợp tác vừa cạnh tranh để gia tăng vị thế toàn cầu.
Mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đã trải qua nhiều giai đoạn biến động, từ hợp tác thân thiết đến cạnh tranh căng thẳng. Trong Chiến Tranh Lạnh, hai nước từng rạn nứt sâu nặng trong cái gọi là “Sự chia rẽ Xô - Trung” do mâu thuẫn ý thức hệ. Tuy nhiên, những thập niên gần đây, các yếu tố như lợi ích kinh tế chung và nhận thức về mối đe dọa từ phương Tây đã kéo họ lại gần nhau hơn. Điều này thể hiện rõ qua các cuộc tập trận quân sự chung, hợp tác thương mại và sự đồng thuận trong nhiều vấn đề quốc tế.
Về mặt kinh tế, Nga và Trung Quốc đã xây dựng một mối quan hệ có tính hỗ tương. Trung Quốc, với quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng, cần một nguồn năng lượng khổng lồ, trong khi Nga lại có trữ lượng dầu khí dồi dào. Do đó, Nga đã trở thành nhà cung cấp năng lượng hàng đầu cho Trung Quốc, giúp tăng cường mối quan hệ song phương.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc này cũng dẫn đến những căng thẳng tiềm ẩn. Kinh tế Nga chủ yếu dựa vào xuất khẩu năng lượng, điều này khiến Nga trở thành “đối tác yếu hơn” trong mối quan hệ với Trung Quốc. Trong khi đó, sáng kiến “Vành Đai Và Con Đường” (BRI) của Trung Quốc đang mở rộng ảnh hưởng sâu rộng vào Trung Á, khu vực mà Nga từ lâu coi là phạm vi ảnh hưởng của mình. Cả hai quốc gia đều muốn giành lợi thế trong khu vực này thông qua các dự án cơ sở hạ tầng và chính sách ngoại giao, khiến sự hợp tác đôi khi biến thành đối đầu ngầm.
Quả thật, Nga và Trung Quốc đã tiến hành nhiều cuộc tập trận quân sự chung và ký kết các hợp đồng vũ khí lớn, nhằm gửi tín hiệu mạnh mẽ đến phương Tây. Nhưng mặt nổi, dù có vẻ đoàn kết, hai nước vẫn duy trì sự thận trọng với nhau. Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào phát triển công nghệ quân sự riêng, bao gồm các hệ thống vũ khí tiên tiến và hải quân hiện đại, làm dấy lên lo ngại ở Nga về khả năng Bắc Kinh có thể vượt mặt họ về sức mạnh quân sự trong tương lai.
Trung Quốc gần như dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo (AI), viễn thông, và Nga thì đang cố gắng để bắt kịp. Mặc dù Tổng thống Nga Vladimir Putin có tuyên bố tham vọng đưa Nga trở thành cường quốc AI, nhưng thực tế là các hệ thống AI hàng đầu của Nga vẫn còn rất tụt hậu so với Hoa Kỳ và Trung Quốc. Điều này buộc Nga phải dựa nhiều hơn vào công nghệ của Trung Quốc, làm lộ rõ khoảng cách giữa hai nước trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo.
Có thể khẳng định, cuộc đối đầu và hợp tác giữa Nga và Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay có nhiều điểm tương đồng với thời kỳ Chiến Quốc và Xuân Thu trong lịch sử Trung Hoa. Hai cường quốc này vừa hợp tác chiến lược để chống lại ảnh hưởng phương Tây, vừa âm thầm cạnh tranh để mở rộng vị thế.
Tưởng cũng nên nói qua mối quan hệ giữa CSVN với Trung Quốc và Liên Xô từ thời chiến tranh lạnh. Ban đầu, cả hai nước cộng sản đều ủng hộ Việt Nam trong cuộc chiến chống Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau Hiệp Định Paris 1973, Mỹ rút quân để Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tự chiến đấu và miền Nam bị cưỡng chiếm năm 1975 như mọi người đều biết, căng thẳng giữa Hà Nội và Bắc Kinh leo thang, dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, dù trước đó vào năm 1978, Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô, chính thức chọn Moscow làm đối tác chiến lược để đối phó với Trung Quốc.
Sự tan rã của Liên Xô năm 1991 buộc Việt Nam phải điều chỉnh chính sách đối ngoại. Không còn chỗ dựa vững chắc từ Moscow, đảng CSVN chuyển sang đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, với nguyên tắc “ba không”: không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ, không đi với nước này để chống nước kia. Điều này giúp Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1991, đồng thời duy trì quan hệ truyền thống với Nga, quốc gia kế thừa Liên Xô.
Hiện nay, Việt Nam tiếp tục duy trì thế cân bằng giữa Nga và Trung Quốc. Với Nga, Việt Nam coi Moscow là đối tác quan trọng về quốc phòng, năng lượng và công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực vũ khí. Trong khi đó, với Trung Quốc, Việt Nam vừa hợp tác kinh tế, vừa kiên quyết bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông. Có thể nói CSVN đã và đang tận dụng cả hai mối quan hệ này để củng cố vị thế của mình trong khu vực và trên trường quốc tế.
No comments:
Post a Comment