Kính thưa quý thính giả,
Một vị lãnh tụ chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã hùng hồn tuyên bố: “Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng
chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta”. Ông được người Việt tôn vinh là một anh hùng dân tộc nhờ vào khí khái, tài năng và đức độ.
Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi
xin gửi đến quý thính giả bài “Thủ lãnh Trương Công Định” của
Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát
thanh tối hôm nay.
Trong Nam, tên họ nổi như cồn,
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn.
Dấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ,
Hơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh môn.
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ,
Quả ấn Bình Tây đất vội chôn.
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ,
Lâm râm ba chữ điếu linh hồn.
Đó là một trong 12 bài thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu vinh
danh Thủ lãnh nghĩa
quân Trương Công Định.
***
Trương Công Định sinh năm 1820 tại làng Tịnh Khê, huyện
Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Thân phụ là Trương Cầm giữ
chức quan Thủy Vệ Úy tại Gia Định. Năm 1844, Trương Công Định theo cha vào Nam cưới bà Lê Thị Thưởng, người làng Tân Phước
huyện Tân Hòa.
-Năm 1850, hưởng ứng
chính sách khai hoang của triều đình, Trương Công Định đứng ra chiêu mộ khoảng
500 dân khai hoang lập ấp, được triều đình Huế phong chức Quản cơ, nên người đương thời
gọi ông là Quản Định.
-Năm 1859, khi
Pháp đưa quân chiếm thành Gia Định, ông dẫn nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều để ngăn chận và đã
đánh thắng quân Pháp tại mặt trận
Thị Nghè, Cây Mai.
-Năm 1860, Nguyễn
Tri Phương đưa ông ra giữ đồn Kỳ Hòa, ông được phong chức Phó lãnh binh. Sau khi đồn Kỳ Hoà thất thủ,
ông cùng nghĩa binh rút về Gò Công xây dựng căn cứ kháng chiến chống Pháp. Ông chỉ huy nhiều
trận phục kích ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho và Chợ Lớn làm cho quân
Pháp bị tổn thất nặng.
-Đầu năm 1861, quân Pháp tấn công thành Gia
Định lần thứ hai, ông chỉ huy nghĩa quân giữ phòng tuyến Chí Hòa. Khi đồn Chí Hòa thất thủ,
ông lui về Gò Công, cùng Lưu Tiến Thiện, Lê Quang Quyền chiêu mộ nghĩa quân trấn
thủ vùng Gia Định - Định Tường. Đồng thời xây dựng lại lực lượng trong các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ
Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười, kéo dài đến tận biên giới Cao
Miên.
-Ngày 5/6/1862, triều đình
Huế ký kết hòa ước với Pháp. Vua nhà Nguyễn chỉ
thị cho Đại học sĩ Phan Thanh Giản
đến gặp và bắt ông
phải giải binh và thăng cho ông lên chức Lãnh binh trấn nhậm nơi khác. Lúc đầu ông định tuân theo, nhưng dân chúng trong vùng và nghĩa quân nhất
quyết giữ ông lại, tôn ông làm Bình Tây Đại Nguyên Soái.
-Tháng 2 năm
1863, Pháp tổng công kích đại bản doanh của
ông ở Gò Công trong 3 ngày liền. Hai phó tướng của ông
là Đặng Kim Chung và Lưu Bảo Đường đều tử
trận. Ông buộc
phải rút về Phước Lộc, dựa vào khu rừng Sát để tiếp tục cuộc chiến chống quân Pháp, kéo dài hơn 2 năm.
-Ngày 20/8/1864,
tên Việt gian Huỳnh Công Tấn dẫn quân Pháp bao vây bắt ông ở Tân Phước, ông chống cự bị trọng thương và rút gươm tự sát. Khi ấy ông vừa tròn 44 tuổi. Con
của ông là Trương Quyền rút quân
lên vùng Châu Đốc, tiếp tục cuộc chiến chống
Pháp thêm 6 năm nữa.
Hay tin Lãnh binh Trương Công Định tuẫn
tiết, triều đình truy tặng phẩm tước. Đến năm 1871, vua Tự
Đức cho lập
đền thờ ông tại Tư Cung, Quảng Ngãi.
Khu lăng mộ và tượng đài vinh danh ông hiện vẫn còn hương khói tại thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
*
* *
Mặc
dù cuộc khởi nghĩa của Lãnh binh Trương Công Định bị dẹp tan, nhưng tinh thần yêu nước và nghĩa khí của ông vẫn tỏa sáng ngàn
thu. Ông đã thể
hiện câu“Anh hùng tử, khí hùng bất tử”, thà tự sát chứ không để bị giặc bắt.
Nhưng điều đáng nói nhất, là ông đã đi vào lịch sử với câu tuyên bố bất hủ:“Triều đình không nhìn
nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ Quốc của chúng ta”.
Sau 49 năm bị nhồi sọ dưới mái trường cộng sản, chắc chắn là
nhiều học sinh VN hiện nay không hề được giảng dạy về cuộc kháng chiến chống
Pháp của các đoàn nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Trương Công Định, Nguyễn Trung
Trực và nhiều thủ lãnh khác nữa.
Họ cũng không được giảng dạy là trước khi đảng CSVN ra đời,
hàng chục ngàn người dân miền Nam đã hy sinh tính mạng và tài sản, để tham gia
các cuộc khởi nghĩa chống quân Pháp xâm lược ngay từ những năm cuối thế kỷ 19,
chứ không phải đợi đến cái gọi là "Nam kỳ khởi nghĩa ngày 19/8/1945”,
mà đảng cộng sản đã rêu rao là do họ tổ chức, nhưng thực chất là họ cướp công của
những đảng phái miền Nam.
Nhưng dù họ đã nỗ lực sửa đổi lịch sử đến đâu chăng nữa, thì vẫn không thể
chối cải được sự thật, là nếu không có những cuộc khởi nghĩa của những anh hùng
như Nguyễn Trung Trực, Trương Công Định, Hoàng Hoa Thám .v.v. thì phong trào
chống Pháp có lẽ đã bị dập tắt, sẽ không có những tổ chức như Việt Nam Đồng
Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng nối tiếp ra đời giành lại độc lập cho nước nhà.
Chính
vì thế, đất nước Việt Nam đang cần sự xuất hiện của những người con mang tinh
thần bất khuất như Lãnh binh Trương Công Định để bảo vệ tổ quốc, chứ không thể
trông chờ vào cái triều đình cộng sản thối nát ở Ba Đình, một tập đoàn độc tài
gian ác đang đẩy dân tộc vào vòng Bắc Thuộc mới.
No comments:
Post a Comment