Chính đảng trưởng của đảng Hộ Tàu Nguyễn Phú Trọng và bè lũ bảo thủ cực đoan chóp bu của đảng đã chủ trương nhà nước CS phải thống trị tuyệt đối việc vận hành nền kinh tế quốc gia, kiên quyết chủ trương xem kinh tế “quốc doanh là chủ đạo”, tạo cho Đảng một công cụ vật chất đủ mạnh để giữ vững quyền lực, tiếp tục duy trì chế độ độc tài toàn trị phi nhân. Do vậy không ai khác, chính Nguyễn Phú Trọng mới là người chịu trách nhiệm hoàn toàn cho nền kinh tế trì trệ tụt hậu, đẩy đời sống người dân đến chỗ khốn cùng.
Để
tiếp nối chương trình phát thanh tối hôm nay, trong tiết mục CNNM kính
mời quí thính giả theo dõi bài viết của Nguyễn Anh Tuấn với tựa đề “Con voi trong phòng của Huy Đức” được đăng trên trang Báo Tiếng Dân
qua sự trình bày của Ngọc Sương.
Nguyễn Anh Tuấn
Gần đây, nhà báo Huy Đức có bài
viết: “Vinashin và sự phản bội công
cuộc cải cách theo hướng thị trường”, cho rằng cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải chịu
trách nhiệm cho những thất bại trong cải cách kinh tế theo hướng thị trường ở
Việt Nam và bởi vậy “việc thành lập Ủy ban Điều tra Độc lập để hạch tội
Nguyễn Tấn Dũng và những người liên quan vẫn còn rất cần thiết”.
Bên cạnh những nhận xét khó kiểm
chứng của các cựu lãnh đạo được dẫn trong bài, bài viết đưa ra ba điểm sau làm
căn cứ cho cáo buộc đối với ông Dũng:
(1) Ông Dũng chủ trương phát
triển các tập đoàn nhà nước đa ngành.
(“Vấn đề của Nguyễn Tấn Dũng là đã chủ trương để Vinashin cũng như để 19 tập
đoàn, tổng công ty lúc ấy kinh doanh đa ngành”).
(2) Ông Dũng “đầu tư ồ ạt.
Tiền đổ ra từ ngân sách, từ ngân hàng. Thậm chí, để có vốn lớn, dự
trữ quốc gia, dự trữ ngoại tệ cũng được đưa ra”.
(3) Ông Dũng để mặc các bộ ngành
cài cắm điều kiện kinh doanh, giấy phép. (“Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, một mặt ồ ạt nâng các doanh nghiệp nhà nước
lên tập đoàn, một mặt để các bộ ngành mặc sức cài cắm điều kiện kinh doanh,
giấy phép”).
Xin bàn về từng điểm một.
Đầu tiên, chủ trương phát triển
tập đoàn nhà nước đa ngành không phải là của cá nhân ông Dũng mà được ghi rõ
trong Nghị quyết Đại hội X (2006) của Đảng, thuộc Báo cáo Kế hoạch Phát triển KT-XH 5 năm 2006-2010 [1]. Đặc biệt
hơn, không ai khác mà chính là Thủ tướng Phan Văn Khải, người được nhà báo Huy
Đức mô tả như một nhà kỹ trị, là Trưởng Tiểu ban Kinh tế – Xã hội, chịu trách
nhiệm soạn thảo kế hoạch này [2].
Trong thể chế chính trị Việt
Nam, nghị quyết mỗi kỳ Đại hội Đảng đóng vai trò chỉ đạo hoạt động của các cơ
quan trong hệ thống, bao gồm cả Chính phủ. Nếu ông Dũng, ở cương vị Thủ tướng khi đó, và chính
phủ của ông, không ban hành các chính sách và quy định phát triển tập đoàn nhà
nước đa ngành, ông sẽ bị cho là làm trái nghị quyết Đảng.
Câu hỏi đặt ra là nếu chủ trương
phát triển tập đoàn nhà nước đa ngành là chống lại cải cách kinh tế theo hướng
thị trường, như nhà báo Huy Đức lập luận, thì vì sao một người mà Huy Đức tin
là ủng hộ thị trường như ông Khải lại chấp nhận đưa vào báo cáo trình Đại hội
như vậy?
Ở điểm thứ hai, việc tăng đầu tư
không rõ có gì ảnh hưởng đến cải cách theo hướng thị trường. Tăng trưởng của
các nước công nghiệp mới Á Châu (NICs) trước đây cũng phụ thuộc chính vào tăng
đầu tư. Đơn cử như Hàn Quốc, trong giai đoạn Thần kỳ Kinh tế (1962-1980), đã
tăng tỷ lệ đầu tư trên GDP khoảng 3 lần, từ 12% lên 35% [3]. Như vậy, tăng đầu
tư không phải vấn đề, mà sử dụng các khoản đầu tư đó như thế nào mới là vấn đề.
Thay vì được trao cho khu vực tư nhân năng động hiệu quả, những khoản vốn liếng
quý giá của đất nước đã rơi vào tay các tập đoàn nhà nước yếu kém, chỉ để thấy
tiền của tan theo mây nước, còn cán bộ thì ra trước vành móng ngựa. Nhưng một
lần nữa, chủ trương phát triển tập đoàn
nhà nước đa ngành là của Đảng mà ông Dũng chỉ là người thừa hành. Nếu ông Dũng
phải chịu trách nhiệm của người thừa hành thì ai phải chịu trách nhiệm cho chủ
trương sai lầm đó khi mà chính Đại hội Đảng đã thông qua?
Điểm cuối cùng – các bộ ngành
cài cắm giấy phép gây khó cho doanh nghiệp – có vẻ liên quan nhất đến cải cách
theo hướng thị trường. Ông Dũng đúng là có trách nhiệm khi không ngăn chặn được
tình trạng này. Tuy nhiên, khác với các nền hành pháp hiện đại nơi mà người
đứng đầu chính phủ có quyền lựa chọn ê-kíp làm việc cùng mình, nguyên tắc Đảng
lãnh đạo toàn diện không cho phép điều đó xảy ra ở Việt Nam.
Cụ thể, ở nước ta Thủ tướng
chẳng thể thay thế thứ trưởng vốn thuộc diện Ban Bí thư quản lý, chứ đừng nói
đến việc đụng vào bộ trưởng vốn thuộc diện Bộ Chính trị quản lý [4]. Nếu ông
Dũng lỗi một khi không ngăn được tình trạng giấy phép con, thì cái cơ chế quái
gở này lỗi đến mười. Chính
Huy Đức cũng thừa nhận trong bài viết rằng tình trạng giấy phép con đã nêu từ
2014 nhưng tới nay, tức là 10 năm sau, vẫn chưa được ngăn chặn hữu hiệu, dù đã
qua hai đời thủ tướng khác. Vậy là do cá nhân người thủ tướng hay do cái cơ chế
quái gở vừa nêu?
Cơ chế quái gở này cũng bị chính
Thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh trong bài phát biểu cuối cùng trước Quốc Hội:
“Người đứng đầu cơ quan hành chính không đủ quyền hạn cần thiết trong việc bố
trí nhân sự dưới quyền, kể cả việc sắp xếp, thay thế, thi hành kỷ luật.” [5]
Không thể phủ nhận ông Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã có những thiếu sót trong hai nhiệm kỳ điều hành Chính phủ
của ông, nhưng việc coi ông như một cái sọt rác của lịch sử để đổ trách nhiệm
cho mọi vấn đề kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay chẳng những không thỏa đáng
mà còn tai hại vì che lấp đi những nguyên do thực sự.
Đoạn cuối bài viết của Huy Đức
đã chạm đến nguyên do này, khi kết luận rằng chính “quốc doanh là chủ đạo” mới
là cản trở lớn nhất của kinh tế thị trường, song lại khiến cho toàn bộ phần
hạch tội Thủ tướng Dũng ở trên trở nên…trớt quớt, bởi lẽ ông Dũng không đề ra
chủ trương này đã đành, mà cũng không có dấu hiệu nào cho thấy ông tha thiết
với một định hướng đậm ý thức hệ như vậy.
Tới đây, con voi trong phòng mới
dần hiện ra. Không ai khác chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới là người cổ
vũ nhiệt thành cho “quốc doanh là chủ đạo” với những lý do ý thức hệ không cần
giấu giếm. Cũng như ở Trung Quốc, những người bảo thủ chính trị ở Việt Nam luôn
tin rằng, Đảng cần kinh tế nhà nước làm chủ đạo để có trong tay một công cụ vật
chất đủ mạnh, hòng giữ quyền lực thống trị.
Tham gia và chủ trì Tiểu ban Văn
kiện ba kỳ Đại hội gần đây XI, XII, XIII, ông Trọng luôn khẳng định kinh tế nhà
nước là chủ đạo. Có người nói văn kiện phải viết theo Cương lĩnh nên không khác
được. Nhưng với quyền lực khuynh loát của mình, nếu thực sự không tin vào “quốc
doanh là chủ đạo”, việc chỉ đạo chỉnh sửa Cương lĩnh có khó gì, khi mà ông
Trọng đã từng sẵn sàng bước qua cả Điều lệ Đảng để tiếp tục nhiệm kỳ thứ 3 của
mình.
Cũng dưới thời ông Trọng, bất kỳ
tiếng nói nào trong Đảng xét lại chế độ sở hữu toàn dân về đất đai – đứa em
song sinh với “quốc doanh là chủ đạo” trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN – sẽ bị coi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và bị nghiêm trị. [6]
Hay cách đây chỉ mới 3 tháng,
trong Hội nghị Trung ương 8, phát biểu thù địch với khu vực tư nhân của ông
Trọng còn nóng hổi: “…Khuyến khích phát triển cá nhân là đúng rồi, không cẩn
thận lại thành TƯ NHÂN, rồi lúc nào đó thành TƯ BẢN CHỦ NGHĨA cho mà xem, trên
thế giới đã có những nước như thế rồi.” [7]
Thái độ thù địch với khu vực tư
nhân của người đứng đầu hệ thống quyền lực đang phủ bóng lên bức tranh kinh tế
– xã hội Việt Nam như thế nào thì mỗi người có thể tự cảm nhận. Song không nên
quá ngạc nhiên khi mà Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình cũng đang an ninh hóa
cao độ nền kinh tế và xã hội của họ, đặt trọng tâm vào việc đề cao khu vực nhà
nước và bóp nghẹt khu vực tư nhân [8], với kết quả là đã đảo ngược lại nhiều
cải cách theo hướng thị trường mà nhiều thế hệ lãnh đạo trước đây từng thực
hiện.
Tóm lại, chính sự bảo thủ ý thức hệ của người nắm quyền lực cao nhất ở Việt Nam là Tổng Bí thư NP Trọng mới là cản trở lớn nhất đối với mọi cải cách ở Việt Nam, dù là kinh tế hay chính trị.
No comments:
Post a Comment