Kính thưa quý thính giả, thực trạng chính trị tại Đài Loan chứng minh rằng dân chủ đa đảng và tự do tôn giáo cùng phát triển hài hòa, cũng như cùng thăng hoa phụng sự cho đất nước và nhân dân.
Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Y Chan với tựa đề: “Tôn giáo và dân chủ tại Đài Loan: Không đội trời chung hay đôi bạn cùng tiến?” sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Nhắc đến dân chủ, người ta thường nghĩ đến các đặc điểm như xã hội đa nguyên, chấp nhận sự khác biệt, tôn trọng nhân quyền, đối xử bình đẳng cùng cơ chế cân bằng, kiểm soát, và sẵn sàng thay thế quyền lực của lãnh đạo.
Những đặc điểm trên có vẻ không tương thích, thậm chí là trái ngược với ấn tượng thông thường về tôn giáo – tôn thờ một hệ giá trị độc nhất, sùng kính tuyệt đối các lãnh tụ, phân chia giai tầng trong nội bộ, phân biệt giữa người trong và ngoài đạo, đồng thời không mấy bận tâm các giá trị nhân quyền phổ quát.
Nếu là một người không theo bất kỳ tôn giáo nào, bạn gần như chắc chắn sẽ gật đầu đồng ý với luận điểm trên. Đó cũng là quan điểm phổ biến của nhiều học giả trên thế giới.
Tuy nhiên, thực tế đặt ra nhiều dấu hỏi cho lập luận này.
Nhiều quốc gia trên thế giới vừa có một nền dân chủ vững mạnh, vừa có các hoạt động tôn giáo đa dạng, phong phú và thu hút phần lớn người dân tham gia. Các học giả nổi tiếng như Alexis de Tocqueville và Max Weber từng lý giải vai trò quan trọng của Tin lành Kháng cách (Protestantism) trong việc hình thành và củng cố nền dân chủ ở Mỹ. Sự phát triển của nền dân chủ, ngược lại, đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa của Thiên Chúa giáo (Christianity) tại nước này.
Đài Loan là một ví dụ khác cho mối duyên nợ giữa tôn giáo và nền dân chủ. Kể từ khi tiến hành dân chủ hóa từ thập niên 1990 đến nay, các tôn giáo tại nước này bùng nổ cả về chất lẫn lượng. Hoạt động tôn giáo không những không cản trở quá trình dân chủ hóa, mà tự bản thân nó là minh họa sinh động cho nền dân chủ.
Nhìn vào bức tranh xã hội hiện tại của Đài Loan, khó tưởng tượng được chỉ mới cách đây vài thập niên, các tổ chức tôn giáo ở nước này vẫn còn bị chính quyền đàn áp và kiểm soát theo những phương thức y khuôn như cách Việt Nam đang làm.
Vào thời thiết quân luật, các hội nhóm tôn giáo lớn đều phải thành lập chi bộ đảng, nơi Quốc Dân Đảng cầm quyền vừa kiểm soát các hoạt động chính trị, vừa đảm bảo đưa người của mình vào đứng đầu các hội nhóm tôn giáo.
Ở các hội nhóm tôn giáo nhỏ hơn, lực lượng an ninh địa phương đóng vai trò giám sát, thường xuyên ập vào bất ngờ kiểm tra.
Những lãnh đạo tôn giáo có phát ngôn trái với đường lối của chính quyền bị kiểm soát đi lại, nhiều người còn bị bỏ tù.
Một số tôn giáo lớn, như Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo, thành lập hiệp hội quản lý độc quyền trong cả nước. Không tổ chức tôn giáo nào được tự ý thành lập hiệp hội khác cạnh tranh với chúng.
Với các tôn giáo có nguồn lực mạnh và được sự ủng hộ từ bên ngoài như các nhóm Thiên Chúa giáo, chính quyền Quốc Dân Đảng lại tương đối nhân nhượng. Mỗi một nhánh Thiên Chúa giáo được thành lập hiệp hội riêng của mình. Luật về Quản lý Đền Chùa (Law Regulating Temples and Shrines) được dùng để kiểm soát và trừng phạt các lãnh đạo tôn giáo, nhưng luật này không áp dụng đối với Thiên Chúa giáo và các tôn giáo bản địa (folk religions). Một trong những lý giải là do các nhóm Thiên Chúa giáo có gốc gác và sự ủng hộ mạnh từ phương Tây, đặc biệt là Mỹ, và chính quyền Đài Loan không muốn làm phật ý các đồng minh thân cận của mình. Còn các nhóm tôn giáo bản địa thì quá nhỏ, không đáng để chính quyền bận tâm.
Nhìn chung, giống như mọi đoàn thể xã hội khác trong thời kỳ độc tài, các tôn giáo cũng phải chịu cảnh bị chính quyền nắm thóp từ trên xuống dưới.
Mọi thứ chỉ thay đổi khi thiết quân luật bị bãi bỏ vào năm 1987. Gần như ngay lập tức, các tôn giáo được gỡ khỏi xiềng xích và đua nhau phát triển. Các lãnh đạo chính quyền, giờ đây không chỉ là người của riêng một đảng, thi nhau kết nối với các tổ chức tôn giáo để tranh thủ sự ủng hộ của cử tri.
Sau khi thiết quân luật được dỡ bỏ, các nhóm
tôn giáo thể hiện các khuynh hướng chính trị đa dạng hơn hẳn.
Có nhóm trước kia ủng hộ Quốc Dân Đảng cầm quyền, nay quay sang ủng hộ các chính trị gia đối lập. Có nhóm thì các lãnh đạo tôn giáo bỏ phiếu cho một phe, các tín đồ lại bỏ phiếu cho phe khác. Có nhóm thì ủng hộ tất cả các đảng phái, tìm cách khuếch trương số lượng thành viên càng nhiều càng tốt. Lại có những nhóm giữ nguyên chủ trương đứng ngoài các cuộc đua chính trị.
Tác giả Cheng-Tian Kuo đưa ra hai yếu tố để đánh giá mối quan hệ giữa tôn giáo và dân chủ: “democratic theology” (thần học dân chủ) và “democratic ecclesiology” (thể chế giáo hội dân chủ).
Theo đó, một học thuyết tôn giáo chia sẻ các giá trị dân chủ như nhân quyền, bình đẳng và một thái độ độc lập trong mối quan hệ với nhà nước được gọi là “thần học dân chủ”. Ngoài ra, nếu một tôn giáo có cơ chế cân bằng, kiểm soát quyền lực của lãnh tụ, chia sẻ quyền lực giữa các chức sắc và tín đồ, đồng thời đảm bảo quyền tự chủ của các nhóm tôn giáo địa phương, tôn giáo đó được xem là có “thể chế giáo hội dân chủ”.
Cuốn sách của Cheng-Tian Kuo là một bản ghi chép vô cùng tỉ mỉ về các tổ chức tôn giáo lớn nhỏ của Đài Loan. Đọc sách, ta không chỉ hiểu thêm về xã hội và con người nước này – nơi có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam – mà còn chứng kiến được cách một xã hội chuyển mình, từ độc tài sang dân chủ.
Các tôn giáo trong thể chế dân chủ là một bức tranh phức tạp, nhiều lúc hỗn loạn. Mối quan hệ của nó với nền dân chủ cũng không phải một đường thẳng với một mũi tên nhân quả giản đơn. Nó đa chiều và thú vị như chính cách thế giới thực vận hành./.
No comments:
Post a Comment