Saturday, July 23, 2022

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

Danh Nhân Nước Việt

Kính thưa quý thính giả,

Đầu thế kỷ 20, Việt Nam có một nhà thơ, nhà văn và là người soạn kịch nổi tiếng. Với lối viết phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lãnh vực, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại và được đánh giá là ngôi sao sáng trong làng văn học.

Trong tiết mục Danh nhân nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.


Say sưa, nghĩ cũng hư đời!
Hư thời hư vậy, say thời cứ say!
Đất say, đất cũng lăn quay
,

Tr
ời say, mặt cũng đỏ gay, ai cười.

Say chẳng biết phen nầy là mấy!
Nhìn non xanh chẳng thấy, lại là say
,

Quái say
,
sao say mãi thế nầy?
Say xuốt cả đêm ngày
,
như bất tỉnh,
Thê ngôn túy tửu
,
chân vô ích.
Ngã dục tiêu sầu
,
thả tự do,
Việc trần ai
,
ai tỉnh ai lo.
Say túy lý bất lo
,
mà bất kể,
Tr
ời đất nhỉ, cái say là sướng thế!
Vợ can chồng, ai dễ đã chừa ngay
,

Muốn say, lại cứ mà say!

Đó là bài thơ Lại Say nổi tiếng của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.

Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 19/5/1889 tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Ông thuộc dòng dõi quý tộc, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, dòng họ ông thề không thi cử và quyết không làm quan với tân triều.

Do hoàn cảnh cực khổ, lại phải nuôi mẹ già nên cha ông là Nguyễn Danh Kế đành phải lỗi ước, đi thi và đỗ cử nhân, nhận chức Ngự Sử.

Nguyễn Danh Kế nổi tiếng là người có tài văn án trong triều. Khi làm Tri phủ Xuân Trường (Nam Định) ông lấy bà Lưu Thị Hiền, một đào hát vẹn toàn tài sắc tại đây. Nguyễn Khắc Hiếu là con trai út trong cuộc lương duyên này.

Nguyễn Khắc Hiếu hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ, 6 tuổi học luận ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ, 10 tuổi biết ra câu đối, 11 tuổi đã làm thơ văn, 14 tuổi thông thạo chương thi, phú. Lúc học ở trường Quy Thức của Pháp tại Hà Nội, Nguyễn Khắc Hiếu đã viết bài “Âu Á nhị châu hiện thế” bằng chữ Hán, được báo chí Hồng Kông đăng trong mục xã thuyết. Năm 15 tuổi, ông nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây.

Năm 1913, ông về Vĩnh Yên cộng tác với tờ báo “Đông Dương tạp chí” của Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách mục “một lối văn nôm”, sau đó viết nhiều tiết mục khác được tiếng vang trên văn đàn.

Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà, tên ghép của quê hương ông giữa núi Tản và sông Đà, bắt đầu viết văn và làm báo chuyên nghiệp. 

Năm 1921, ông làm chủ bút báo Hữu Thanh bị thất bại, lập tiếp Tản Đà thư cục, An Nam tạp chí, lại bị đình bản. Ông vào miền Nam, viết cho báo Thần ChungĐông Pháp thời báo được một thời gian, ông trở ra miền Bắc tái lập An Nam thời báo cũng thất bại. Ông phải dịch thơ Đường cho báo Ngày Nay và dịch Liêu trai chí dị, chú thích truyện Kiều cho nhà xuất bản Tân Dân. Ông là người yêu nước nồng nàn, thể hiện qua bài “Vịnh bức dư đồ rách”.

Trong suốt 25 năm làm báo và làm thơ, ông để lại 285 bài thơ.
-
Về Tiểu thuyết: Thề non nước. Giấc mộng lớn. Giấc mộng con...
-
Về Luận thuyết: Tản Đà tùng văn, Tản Đà Xuân sắc...

-Về Dịch thuật: Liêu trai chí dị, Đại học, Đường thi...

Ông là một ngòi bút phóng khoáng, phong phú về mọi lãnh vực. Văn thơ ông lãng mạn ngông nghênh, hun đúc và thai nghén cho sự ra đời thơ mới bằng cách kết hợp giữa văn học cổ điển với văn học hiện đại.

Ông mất tại Hà Nội ngày 7/6/1939. Lăng mộ và nhà tưởng niệm ông được xây trên một khu đất rộng ở làng Khê Thượng - Sơn Đà.

*****

Tin Tản Đà qua đời gây xôn xao trong làng văn, một loạt các bài báo tưởng niệm ông được ra mắt ngay sau đó như:

*Khái Hưng có “Cái duyên của Tản Đà”.

*Xuân Diệu có “Công của thi sĩ Tản Đà”.

*Lâm Tuyền Khách có “Đời làm báo của Tản Đà”.

*Lưu Trọng Lư có “Bây giờ, khi nắp quan tài đã đậy lại”.

*Phan Khôi có “Tôi với Tản Đà thi sĩ”.

*Nguyễn Tuân có “Tản Đà, một kiếm khách”.

Trong lĩnh vực thi ca, dòng thơ của Tản Đà mượt mà, có màu sắc riêng vượt thời gian và không gian. Thơ của ông đặc sắc, dịch thuật của ông sát nghĩa, uyển chuyển nhẹ nhàng. Thơ dịch của ông, thường là các bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường hay hơn các bản dịch khác, có bài còn hay hơn cả nguyên tác nhờ sáng sủa, không bị gò bó, đưa tâm hồn rung cảm thật sự vào thơ, đến nỗi nhà thơ Bùi Giáng trong cuốn “Đi vào cõi thơ”, đã thẳng thắn nói rằng, thơ dịch của Tản Đà là “vô tiền khoáng hậu”.

Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1940, văn đàn VN không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được giới thơ văn yêu mến như Tản Đà. Trong cuốn “Thi Nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đặt bài tưởng niệm Tản Đà lên những trang đầu, với lời lẽ tôn kính.

Chắc chắn Tản Đà sẽ ấm lòng về những điều mà hậu thế dành cho ông, vì ông đã để lại dấu ấn đặc sắc của mình trong các sáng tác gửi lại cho các thế hệ mai sau.

Nước non, nặng một lời thề,
Nước đi, đi mãi, không về cùng non
.

 

No comments:

Post a Comment