Thứ Bảy, 24.10.2015
Kính thưa quý thính giả,
Khoảng thời gian từ khi nhà Hồ sụp đổ vào năm 1407 cho đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vào năm 1418 là khoảng thời gian nước Đại Việt đầy loạn lạc tang thương. Nhưng nhờ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, những anh hùng hào kiệt nhà Trần, nhà Hồ đã đánh đuổi giặc Tàu xâm lăng, giành lại giang sơn xã tắc. Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Danh tướng Đặng Tất" của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
*****
Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ,
Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng.
Đó là hai câu đối của vua Lê Thánh Tông ban chiếu tặng hai cha con ông Đặng Tất và Đặng Dung.
Đặng Tất sinh năm 1357 tại Thiên Lộc, châu Nghệ An, nay là xã Tùng
Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tỉnh. Ông thi đậu Thái học sinh thời nhà
Trần và được bổ làm Tri phủ Hóa Châu nay là vùng Hải Lăng, Quảng Trị.
Ông là quan nhà Trần nhưng chấp nhận làm quan triều đại nhà Hồ vào
thời Trần mạt vào cuối năm 1400. Khi nhà Hồ sụp đổ vào năm 1407 bởi sự
xâm lăng của giặc Tàu, ông cùng các quan viên một mặt chống trả quân
Chiêm Thành quấy phá từ phía Nam, một mặt ra sức đánh đuổi giặc Tàu xâm
lăng từ phía Bắc.
Khi tôn thất nhà Trần là Trần Ngỗi (Giản Định Đế) khởi nghĩa ở Ninh
Bình, lập nên nhà Hậu Trần, chiêu binh chống quân Minh, nhưng bị quân
Minh đánh bại, phải rút vào Nghệ An.
Đặng Tất cùng Nguyễn Cảnh Chân mang quân đến trợ giúp Giản Định Đế.
Giản Định Đế phong Đặng Tất làm Quốc công điều quân ngoài mặt trận và
phong cho Nguyễn Cảnh Chân làm Đồng tri Khu mật Tham mưu quân sự.
Đầu năm 1408, Đặng Tất điều quân đánh Nghệ An và Diễn Châu, tiêu diệt
lực lượng của hai quý tộc nhà Trần theo hàng quân Minh là Trần Thúc Dao
và Trần Nhật Chiêu.
Tháng 5 năm 1408, Giản Định Đế từ Hóa Châu tiến ra đánh chiếm lại
Nghệ An, sau đó tiến chiếm Tân Bình do viên tướng người Việt theo quân
Minh tên Phạm Thế Căng trấn giữ. Từ đó quân nhà Hậu Trần làm chủ từ Nghệ
An đến Thuận Hóa.
Giản Định Đế tiến quân ra Bắc. Đặng Tất huy động 5 lộ quân từ vùng
Thanh Hóa - Thuận Hóa, tiến ra Trường Yên (Nam Định), chia ra đánh đồn
Bình Than, cửa Hàm Tử, chận đường giao thông ở Tam Giang và đánh phá bên
ngoài thành Đông Quan.
Minh Thành Tổ sai hai tướng Mộc Thạnh và Lưu Tuấn mang thêm 4 vạn
quân sang tiếp viện. Mộc Thạnh họp với Lữ Nghị ở Đông Quan, tập trung
quân ở bến Bô Cô (Nam Định) chuẩn bị tiến đánh quân Đại Việt.
Ngày 30/12/1408, quân Đại Việt đánh bại 10 vạn quân Minh, giết chết
Thượng thư bộ binh Lưu Tuấn, Đô đốc Lữ Nghị, Tham chính Giao Chỉ là Lưu
Dục, Đô sứ Liễu Tông. Bại tướng Mộc Thạnh dẫn tàn quân chạy vào thành Cổ
Lộng.
Giản Định Đế muốn thừa cơ đánh ngay vào lấy Đông Quan, nhưng Đặng Tất
và Nguyễn Cảnh Chân chủ trương thanh toán xong số tàn quân địch còn sót
lại rồi mới tiến quân. Trong khi vua tôi bàn chiến thuật tấn công, thì
quân Minh đã gửi viện binh tiếp ứng cho Mộc Thạnh rút về cố thủ Đông
Quan.
Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân chia quân bao vây các thành gần Đông
Quan và gửi hịch trên toàn cõi Đại Việt kêu gọi dân chúng hưởng ứng đánh
đuổi quân Minh. Hai ông bao vây thành Đông Quan (Thăng Long), tiêu diệt
viện binh Tàu và chuẩn bị những trận đánh cuối cùng quét sạch giặc Tàu
khỏi bờ cõi.
Nhưng hoài bão đánh đuổi giặc Tàu ra khỏi bờ cõi của hai ông bị dở
dang vì lời sàm tấu của một số quan viên phục dịch cho Giản Định Đế.
Giản Định Đế sợ uy tín của hai người quá cao và nghi ngờ hai ông "làm
phản" nên triệu hai ông về và giết chết.
Thi hài Đặng Tất được các con ông mang về chôn ở làng Thế Vinh, huyện
Sĩ Vang, ngoại thành Hóa châu (nay là xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh
Thừa Thiên). Mộ ông nằm ở ven bờ Nam sông Hương, cách thành Hóa châu
khoảng 7 cây số, người dân trong vùng tôn ông làm Thành Hoàng.
Hai người con của hai ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị bất bình vì
cha bị giết oan, bỏ đi lập Trần Quý Khoáng làm vua, tức là Trần Trùng
Quang Đế.
Quân Hậu Trần mất đi hai tướng tài giỏi, thế lực dần dần suy yếu và cuối cùng bị quân Minh đánh bại vào năm 1413.
Riêng Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã tận lực giữ cho ngọn lửa dũng
khí cháy mãi trong tâm khảm những kẻ sĩ thời loạn lạc để rồi vào năm
1418, ngọn lửa gặp "cơn gió lớn" của vị anh hùng Lê Lợi và các hào kiệt
Lũng Nhai thổi bùng thành cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quét sạch giặc Tàu ra
khỏi giang sơn Đại Việt.
Như đức Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô Đại Cáo sau khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi:
"Thế nước có lúc thịnh lúc suy,
Nhưng hào kiệt thời nào cũng có".
Chắc chắn khi viết hai câu này, đức Nguyễn Trãi cũng cảm khái về sự
trung dũng của những người như Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Họ là những
nhân tài xuất hiện trong lúc đất nước rên siết dưới gót giày xâm lược
của giặc Tàu và họ đã gây tổn thất cho hàng vạn tướng sĩ quân Minh. Họ
đã chết oan uổng chỉ vì lời gièm pha của bọn nịnh thần bên cạnh một hôn
quân, khiến cho đạo quân kháng chiến mà họ dốc sức xây dựng bị tan rã,
kéo dài sự đô hộ của quân Minh thêm nhiều năm nữa, cho đến khi có cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn của đức Bình Định Vương Lê Lợi.
Thế nhưng, công lao của cha con Đặng Tất và Đặng Dung không bao giờ
bị quên lãng. Vì họ là một trong những biểu tượng cho truyền thống chống
ngoại xâm của dân tộc Việt. Họ chính là niềm hy vọng trong giờ phút đen
tối của đất nước vào lúc đó, và là tấm gương sáng cho thế hệ hiện nay
noi gương trong bối cảnh tập đoàn lãnh đạo CSVN đang hiến dâng mảnh
giang sơn gấm vóc cho đế quốc Tàu Cộng và hủy hoại nền văn hiến ngàn đời
của dân tộc.
Việt Thái
No comments:
Post a Comment