Một trong những điểm nóng của quan hệ Việt Trung trong tương lai sẽ là tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông. CSVN từ lâu đã quá lệ thuộc vào đàn anh ý thức hệ CSTQ và hoàn toàn mất cảnh giác. Đã đến lúc Việt Nam phải học hỏi từ những phán quyết của Tòa Án Công Lý Quốc Tế và chuẩn bị chi những tranh chấp pháp lý với CSTQ trong tương lai.
Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Nguyễn Quốc Tấn Trung với tựa đề: “Tòa Công lý Quốc tế ra phán quyết về tranh chấp biển Kenya và Somalia: 4 điều Việt Nam có thể lưu ý” sẽ được Hướng Dương trình bày để kết thúc chương trình phát thanh DLSN tối hôm nay.
NGUYỄN QUỐC TẤN TRUNG
Tòa án Công lý Quốc tế (International
Court of Justice – ICJ) vừa ban hành phán quyết về tranh chấp phân định ranh giới
biển giữa Kenya và Somalia vào ngày 12/10 vừa qua: Maritime Delimitation in the
Indian Ocean (Somalia v. Kenya). Đây là một trong những phần bổ sung mới nhất của
hệ thống tài phán quốc tế về luật biển cũng như các tranh chấp liên quan đến
phân định ranh giới biển.
Phán quyết của ICJ có thể chia làm hai
phần. Phần đầu tiên là về các lập luận pháp lý cân nhắc lập trường của hai bên
và các vấn đề còn tranh cãi. Phần thứ hai là sử dụng luật biển quốc tế để phân
chia chi tiết đường biên giới giữa hai quốc gia.
Bài viết này tập trung phân tích phần đầu
tiên, với bốn lập luận pháp lý đáng chú ý liên quan đến tranh chấp biển Đông của
Việt Nam.
1. “Chủ quyền lịch sử” hay “di sản thực
dân”?
Trong các thảo luận tranh chấp chủ quyền
tại hai vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, cả hai phía đều tận dụng
các lập luận về chủ quyền lịch sử của mình đối với vùng biển. Nếu các học giả
Trung Quốc cho rằng quốc gia này đã xác lập chủ quyền lịch sử đối với biển Đông
và các quần đảo trong khu vực từ thời… Xuân Thu, các học giả Việt Nam vẫn tiếp
tục nhấn mạnh vào việc viện dẫn lịch sử lâu đời của Việt Nam tại đây với châu bản,
chính sử từ thời nhà Nguyễn.
Vai trò của “di sản thực dân” một lần nữa
được chứng minh trong bản án Somalia v. Kenya.
Bản án không hề nhắc gì đến “chủ quyền
lịch sử” kéo dài hàng ngàn năm trước đó giữa các bộ tộc thuộc hai vùng đất
Somalia và Kenya.
2. Vấn đề tuyên bố phân định biên giới
biển và “thỏa thuận ngầm”/“ưng thuận”
Ý nghĩa pháp lý của các tuyên bố đơn
phương về chủ quyền biên giới trên bộ lẫn trên biển là một vấn đề lớn của Việt
Nam, đặc biệt khi chúng ta nhắc đến tuyên bố đơn phương của Trung Quốc và công
hàm công nhận của Việt Nam thường được gọi là “Công hàm Phạm Văn Đồng”.
Trong phán quyết này của ICJ, có rất
nhiều thảo luận liên quan, tạo điều kiện cho Việt Nam cân nhắc các điểm lợi hại
cho mình.
Nội dung xét xử cho thấy Kenya vận dụng
liên tục nguyên tắc về “thỏa thuận ngầm” (tacit agreement) và “đồng thuận ngầm”
(acquiescence) trong pháp luật quốc tế.
Somalia không đồng tình với lập luận
này.
Somalia lập luận rằng việc không phản đối
các thông cáo hay tuyên bố chủ quyền không thể tự động được coi là chấp nhận những
yêu sách đó.
Cuối cùng, tòa chấp nhận cách lý giải của
Somalia.
Nếu xét theo tình hình Việt Nam, cũng
có khả năng cao Trung Quốc lập luận rằng trong giai đoạn từ năm 1958 đến tận
1990, dù trải qua nhiều trận hải chiến, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
chưa bao giờ phản đối các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại biển Đông một
cách rõ ràng. Lập luận của Somalia có thể giúp chúng ta phản bác luận điểm này.
3. “Tình trạng chiến tranh” và tác động
của nó
Một lập luận có ý nghĩa khác đối với Việt
Nam mà Somalia đưa ra là tại các đoạn 46 – 47 của phán quyết là: tình trạng chiến
tranh và không thống nhất của Somalia trong các giai đoạn mà Kenya đưa ra tuyên
bố chủ quyền và thực thi chủ quyền này.
Somalia lý giải rằng với các cuộc nội
chiến kéo dài, Somalia không có một chính phủ đại diện nào có đủ tiềm lực và thời
gian để theo dõi, đo đạc, phản đối, kiểm soát và thực thi đầy đủ chủ quyền của
họ trên vùng biển tranh chấp. Đây là một yêu cầu không thực tế và không hợp lý
cho bối cảnh quốc gia Somalia.
Lập luận này được ICJ thừa nhận trong
phán quyết. Tại đoạn 79, ICJ công nhận từ năm 1991 đến năm 2005, tình trạng
xung đột vũ trang kéo dài khiến Somalia không có một chính quyền trung ương đủ
nguồn lực và thời gian để quan tâm đến ranh giới biển. Tình trạng nội chiến vô
cùng tồi tệ và đã được nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc, các tổ chức liên chính phủ
ghi nhận, đánh giá và giúp đỡ.
Trong trường hợp Việt Nam, viện dẫn chiến
tranh Việt Nam như một lý do quan trọng dẫn đến việc mất khả năng xem xét, cân
nhắc, phản đối các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trong giai đoạn đó sẽ là một
cách tiếp cận đáng chú ý.
4. Cân nhắc ban hành và chi tiết hóa
pháp luật nội địa
Yếu tố cuối cùng trong phán quyết mà
người viết cho rằng Việt Nam nên lưu ý là vấn đề pháp luật nội địa.
Dù là một phán quyết luật quốc tế, ICJ
dành khá nhiều thời gian để ghi nhận và đánh giá tính thống nhất của pháp luật
quốc gia Kenya, từ đó đưa ra kết luận về sự nhất quán của họ trong các tuyên bố
chủ quyền.
Trong số các đạo luật được xem xét,
đáng chú ý nhất là Đạo luật vùng Lãnh hải 1972 (Territorial Waters Act of 1972)
và Đạo luật vùng Hàng hải 1989 (Maritime Zones Act of 1989). ICJ nhận thấy ngay
cả trong pháp luật nội địa, Kenya cũng chưa từng thống nhất cách phân định ranh
giới biển với quốc gia láng giềng là cắt biển song song với đường vĩ tuyến. Các
thẩm phán cũng chỉ ra là hầu hết các văn bản của Kenya về vùng đặc quyền kinh tế,
vùng thềm lục địa cũng chưa hề tạo ra một chính sách thống nhất về vùng biển mà
họ cho rằng họ đang quản lý.
Điều này dẫn đến một số lo ngại cho Việt
Nam. Luật Biển 2012 đã quá tuổi và quá thiếu chi tiết liên quan đến chủ quyền,
cách phân định đường biên giới biển lẫn những bản đồ chi tiết. Trong khi đó, hệ
thống luật pháp nội địa về biển của Trung Quốc thì ngày càng được tăng cường với
nhiều thông tin hơn, cũng như khả năng thực thi cao hơn trên vùng biển Đông của
Việt Nam.
Trong bối cảnh này, việc hoàn thiện, thống
nhất và pháp điển hóa mọi tuyên bố chủ quyền của Việt Nam có thể sẽ tạo ra những
chứng cứ rõ ràng hơn và có lợi hơn cho chúng ta, nếu một ngày nào đó vấn đề biển
Đông được mang ra tòa quốc tế.
No comments:
Post a Comment