Thứ Bảy 16.04.2016
Kính thưa quý thính giả, Lịch sử ghi lại, dân tộc Việt có nhiều cuộc khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm, gìn giữ giang sơn gấm vóc là nhờ vào truyền thống, một trong những truyền thống đó là việc "trì thủ ân nghĩa", nên việc thờ phượng Quốc Tổ Hùng Vương luôn được con dân nước Việt luôn ghi nhớ. Hôm nay ngày 16/4/2016, nhằm ngày mùng 10 tháng 3 năm Bính Thân đúng là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, khắp nơi trong và ngoài nước đều tổ chức trọng thể ngày đại lễ này. Chúng tôi xin gát lại tiết mục Danh nhân nước Việt tuần này, để gửi đến quý thính giả giọng đọc của Tam Thanh qua bài "Ý nghĩa Lễ Giỗ Tổ" vừa mới được đọc trong buổi lễ Giỗ Tổ tại nhà thờ Quốc Tổ ở Sydney, Úc châu.
"Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba.
Khắp miền truyền mãi câu ca,
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm."
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa đã đi vào lòng mỗi người dân Việt từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm qua, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương luôn
là biểu tượng tôn kính, là nơi quy tụ và gắn bó của toàn dân tộc.
Từ xa xưa, ngày Giỗ Tổ đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của người
Việt. Bản ngọc phả viết từ đời Trần vào năm 1470, được vua Lê Thánh
Tông và Lê Kính Tông cho sao chép đóng dấu, đang lưu giữ tại Đền Hùng,
viết rằng: "...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến
triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi
đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào
việc cúng tế vẫn không thay đổi...".
Về sau này, ngày Giỗ Tổ đã trở thành ngày trọng đại của dân tộc Việt,
mùng 10 tháng 3 âm lịch đã in đậm trong lòng mọi người. Dù ở phương
trời nào, người Việt Nam cũng đều hướng về vùng đất cội nguồn để tưởng
nhớ, tôn vinh công lao của các Vua Hùng và các bậc Tiền nhân đã dầy công
dựng nước và giữ nước.
Ngoài ra, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương còn nhằm mục đích nhắc nhở, dạy dỗ
con cháu về truyền thống trì thủ ân nghĩa, uống nước nhớ nguồn, một
truyền thống cần được duy trì và phát huy mãi mãi.
Con người có tổ có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Cây có cội, mới nẩy cành xanh ngọn,
Nước có nguồn, mới biển rộng sông sâu.
Mặc dù thời Hùng Vương đã trở thành huyền sử, còn sót lại chỉ là
những câu ca dao, tục ngữ và truyền thuyết lưu truyền trong dân gian.
Nhưng ngày Giỗ Tổ vẫn ăn sâu vào tâm linh người Việt hơn 1000 năm Bắc
thuộc, dưới ách đô hộ phong kiến của phương Bắc, tiếp theo là 1000 năm
thăng trầm theo lịch sử, tấm lòng của người Việt vẫn luôn nhớ về cội
nguồn. Do đó, ngày mùng 10 tháng 3 được xem là một trong những ngày lễ
thiêng liêng của con dân nước Việt.
Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, sử gia Ngô Sĩ Liên viết vào năm 1479,
dân tộc Việt lập quốc vào năm 2879 trước Công Nguyên. Năm 2879 là năm
thứ nhất của Việt Lịch, tính đến năm nay thì dân Việt có 4895 năm văn
hiến.
Truyền thuyết kể rằng, vua Đế Minh là cháu 3 đời của vua Thần Nông,
đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ
ra người con tên là Lộc Tục. Về sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con
trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua ở
phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, lấy quốc hiệu là Xích Quỉ.
Bờ cõi nước Xích Quỉ lúc bấy giờ gồm: phía Bắc giáp Động Đình hồ (Hồ
Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ
Xuyên), phía Đông giáp biển Nam Hải.
Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long (vua hồ Ðộng Ðình) sinh một
con trai đặt tên là Sùng Lãm, sau nối ngôi xưng là Lạc Long Quân. Lạc
Long Quân lấy con gái Ðế Lai là bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở
ra một trăm người con là tổ tiên của giòng Bách Việt.
Một hôm, Lạc Long Quân bảo bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống
tiên, thủy hỏa tương khắc, chung hợp thật khó". Và chia 50 người con
theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha về phía biển.
Lạc Long Quân phong cho con trưởng nối ngôi lấy hiệu là Hùng Vương,
đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú),
đặt tên gọi tướng văn là Lạc hầu, tướng võ là Lạc tướng, con trai vua
gọi là Quan lang, con gái vua gọi là Mị nương.
Theo quan niệm lập quốc của dân tộc, nước Việt được thành lập do
nhiều vị Quốc Tổ, 18 đời Hùng Vương chứ không phải một vị vua đầu tiên
như nhiều quốc gia khác. Và cũng theo quan niệm này, dân tộc Việt đã chú
trọng việc hình thành một nền văn hiến hơn là thành lập một quốc gia
theo nghĩa chính trị đương thời.
Do đó, Giỗ Tổ là một truyền thống nhân bản của người Việt, không phải
là để trình diễn, mà cũng không mang tính chất tôn giáo hay mê tín dị
đoan. Nó phát xuất từ lòng thành kính đối với Quốc Tổ và các bậc Tiền
nhân. Ngày lễ này không chỉ là ngày hội quần tụ của cả dân tộc, còn là
ngày để con dân Việt khẳng định sức mạnh của giống nòi, và sức trường
tồn mãnh liệt của văn hóa dân tộc.
Ngày Giỗ Tổ giúp cho mọi người nhớ về nguồn gốc của tổ tiên, để từ đó
gắng sức đắp xây đất nước ngày càng phồn thịnh hơn. Chính ý nghĩa
thiêng liêng này nên dù có bận trăm công nghìn việc thì hàng triệu người
Việt đang sinh sống ở khăp mọi nơi đều ghi nhớ ngày mùng 10 tháng 3, để
ghi nhớ công ơn dựng nước, góp phần vào việc gìn giữ truyền thống tốt
đẹp của dân tộc.
Dầu ai buôn bán nơi đâu,
Nhớ ngày Giỗ Tổ rủ nhau ta về.
Dầu ai buôn bán trăm nghề,
Tháng ba, lễ Tổ ta về cho đông.
Quốc Tổ là biểu trưng cho tinh thần, cho sức sống, cho Hồn Thiêng
Sông Núi, là nguồn gốc, cũng là sự sống còn, là niềm hy vọng và là tụ
điểm của dân tộc. Đây chính là nền tảng đích thực cho công cuộc Cứu Nguy
Tổ Quốc thoát khỏi bạo lực của cường quyền phương Bắc.
Chính vì thế, vào những năm cuối triều nhà Nguyễn và dưới thời Việt
Nam Cộng Hòa, ngày Giỗ Tổ được ấn định là ngày đại lễ của quốc gia. Cho
nên, việc thờ phượng Quốc Tổ cần phải được phổ biến rộng rãi nơi hải
ngoại cũng như trong nước, để toàn thế giới biết dân tộc Việt đã có nền
văn hiến từ xa xưa. Và cũng để con dân Việt thể hiện tấm lòng trì thủ ân
nghĩa đối với Tổ Tiên, đồng thời góp phần vào việc bảo tồn và phát huy
truyền thống văn hóa của dân tộc.
No comments:
Post a Comment