Thứ Bảy 23.04.2016
Kính thưa quý thính giả, Một người có tấm lòng yêu nước vào nửa thế kỷ 19, có một đời sống trong sạch, theo tiếng gọi của non sông chiến đấu đến cùng và đã hy sinh trong trận chiến chống thực dân Pháp. Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Đốc binh Lê Công Kiều" của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Vì nước quên mình bởi chữ trung,
Thương dân chi sá chốn sình bùn,
Mấy năm Đồng Tháp danh vang dội,
Cọp rống ngoài truông, cáo hãi hùng,
Hai thước im lìm nơi thạch động,
Đồng bào tưởng nhớ đứng thờ chung,
Nỗi lòng nghỉ đến nhiều năm trước,
Đó là bài thơ 8 câu của dân gian ca ngợi Đốc binh Kiều.
Đốc binh Kiều thuở nhỏ tên Nguyễn Tấn Kiều, sau đổi thành Lê Công
Kiều, người dân tôn kính gọi ông là Quan Lớn Thượng. Ông là Phó tướng
của Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên Hộ Dương) trong cuộc khởi nghĩa chống
thực dân Pháp ở Đồng Tháp Mười.
Tương truyền, Đốc binh Kiều là người miền Trung di cư vào Nam lập
nghiệp ở huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường, về sau đổi thành huyện Cai
Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, sau khi thành Gia Định thất thủ, ông đến Gia Định đầu quân
vào nhóm nghĩa quân chống thực dân Pháp. Nhờ giỏi võ nghệ, ông đã trở
thành thủ lãnh của số nghĩa quân này.
Năm 1861, Đại đồn Kỳ Hòa bị giặc Pháp san bằng, ông không theo quân
triều đình rút về Biên Hòa mà dẫn quân về lập căn cứ ở Sầm Giang, Long
Hưng (thuộc huyện Kiến Đăng) để tiếp tục chiến đấu.
Khi được tin Trương Định lập căn cứ Tân Hoà (Gò Công), Thiên Hộ Dương
lập căn cứ ở Bình Cách, Mỹ Quý (thuộc Ba Giồng, huyện Kiến Đăng), ông
đem quân về hợp tác với Thiên Hộ Dương, được phong chức Đốc binh và
trong suốt thời kỳ chiến đấu ở Ba Giồng, chẳng những ông lập được nhiều
chiến công mà còn chăm lo việc tổ chức, tuyển mộ và huy động binh lương,
nên ông được thăng cấp Phó tướng trong đoàn nghĩa quân của Thiên Hộ
Dương.
Sau 2 cuộc tấn công lớn của quân Pháp vào tháng 11/1862. Ngày
20/4/1863, quân Pháp lại tấn công thêm một lần nữa. Lần này, quân khởi
nghĩa mới thật sự bị đánh bật ra khỏi Bình Cách, rút về Xoài Tư, 1 trong
3 cửa ngõ vào Đồng Tháp Mười.
Khi ấy, Thiên hộ Dương phân công:
-Thủ khoa Huân đi các tỉnh miền Tây vận động tiền bạc để mua võ khí.
-Thiên hộ Dương hành quân lưu động, hô hào kích thích lòng yêu nước và chiêu mộ nghĩa quân.
-Lê Công Kiều giữ trọng trách đi vào Đồng Tháp Mười tìm nơi lập căn cứ chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Ở vùng đầm lầy, ông đã huy động dân quân xây dựng 3 đồn chính bằng
đất có hào và tre bao bọc nằm án ngữ trên 3 con đường dẫn vào Đồng Tháp
Mười, đó là Đồn Tiền (trên đường đi Cái Nứa), Đồn Tả (trên đường đi Mộc
Hóa, hướng Gò Bắc Chiêng) và Đồn Hữu (trên đường đi Cần Lố) và đặt đại
bản doanh tại Đồn Trung (Gò Tháp).
Tháng 7 năm Giáp Tý (1864), Thủ Khoa Huân bị Tổng đốc An Giang là
Phan Khắc Thận bắt giao cho Pháp. Đến tháng sau, ngày 20/8/1864, Trương
Công Định bị Huỳnh Công Tấn phản bội điềm chỉ và đã hy sinh ở Gò Công.
Trước những mất mát to lớn này, Thiên hộ Dương quyết định rút vào
Đồng Tháp Mười, và nơi đây mới thật sự trở thành trung tâm kháng chiến
mới vào cuối năm 1864 đến năm 1866.
Theo sự phân công của chủ tướng, Đốc binh Kiều chỉ huy Đồn Tả, chịu
trách nhiệm phòng giữ mặt Xáng Xéo, Rạch Ruộng, không cho đối phương từ
Cai Lậy, Cái Bè tiến vào.
Ở đây, có vài lần ông đã chủ động kéo quân ra đánh Cai Lậy và nhiều
nơi khác, gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp. Tuy nhiên, cách thức của
ông thường dùng vẫn là lối đánh du kích. Nhờ địa thế, nơi ông trấn giữ
có nhiều đầm lầy, tràm đưng cùng vô số muỗi, đỉa... nên ông đã cùng
nghĩa quân nghĩ ra nhiều cách đánh rất hiệu quả như thả ong độc, rắn
độc, lợi dụng cỏ khô trên đồng, dùng hỏa công hay gài chông, đặt
bẫy.v.v.
Trong cuộc tấn công Gò Tháp vào tháng 4 năm 1866, quân Pháp đã chỉ
huy các sĩ quan cùng các cộng sự là Trần Bá Lộc, Huỳnh Công Tấn, Phạm
Công Khanh... dẫn một đoàn quân đông đảo, đồng loạt tấn công cả 3 đồn,
hòng mở đường tiến vào đại bản doanh. Thiên hộ Dương, Đốc binh Kiều cùng
nghĩa quân chống trả quyết liệt, đẩy lui được nhiều đợt tiến công của
giặc.
Chẳng may, lúc lên đài quan sát, Đốc binh Kiều bị trúng đạn của đối
phương, được đưa về gò Giồng Dung điều trị. Nhưng do bị thương quá nặng,
ông đã hy sinh.
Khi Đốc binh Kiều mất, nghĩa quân mang thi hài ông về chôn cất tại
nền đồn Trung ở Gò Tháp, đồng thời cũng làm vài ngôi mộ giả để nghi
trang tránh quân Pháp phá hủy.
Hiện nay, ở Gò Tháp có đền thờ ông và Thiên hộ Dương. Và hàng năm, từ
ngày 14 đến ngày 16 tháng 11 âm lịch, người dân trong vùng đều tổ chức
lễ tưởng niệm.
Trước năm 1975, tại Sài Gòn và một số thành phố có con đường mang tên
Lê Công Kiều để tưởng nhớ đến công lao của ông đã cống hiến cuộc đời
cho đất nước.
Đốc binh Kiều tử trận là một mất mát lớn của nghĩa quân trong thời kháng chiến chống Pháp.
Ông gục ngã vì mục tiêu giành lại độc lập cho đất nước, tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc.
Đốc binh Kiều đã chứng minh cho thực dân Pháp thấy rõ rằng, dân tộc
Việt không nhu nhược và yếu hèn. Và đây là niềm tự hào của người Việt
hôm nay, khác với đảng cộng sản VN luôn ra rả tự xưng là anh hùng mà
không dám lên tiếng phản đối hàng ngàn tàu bè của Trung cộng xâm nhập
hải phận VN, đặc biệt là giàn khoan HD 981 mà họ đã ngang nhiên đưa trở
lại lãnh hải VN hồi tháng trước.
Việt Thái
No comments:
Post a Comment