Thứ Tư, 27.04.2016
Sau 7 thập niên độc tài toàn trị, những lãnh đạo chóp bu của đảng CSVN đã mang trong người căn bệnh trầm kha là chém gió vung vít hùng hồn, nhưng không bao giờ dấn thân hành động. Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần Bình Luận của Nguyễn Hưng Quốc với tựa đề: "Từ nhận thức đến hành động" sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Trong bài "Can đảm và sáng suốt" kỳ trước, tôi có khen những lời phát
biểu trước Quốc hội của ba đại biểu Võ Thị Dung, Trương Trọng Nghĩa và
Lê Văn Lai. Nhận định của họ vừa chính xác vừa sâu sắc. Phát biểu một
cách công khai những nhận định ấy trước diễn đàn Quốc hội là một điều
dũng cảm, rất đáng khen ngợi. Tuy nhiên, ở đây, có hai điều cần chú ý.
Thứ nhất, cả ba người đều không đi xa hơn việc ghi nhận sự kiện. Họ
không đi sâu vào việc truy tầm nguyên nhân của các vấn đề nghiêm trọng
tại Việt Nam: Sự lãnh đạo độc tôn và đầy sai lầm của đảng cộng sản.
Thứ hai, những phát biểu của họ tuy mới lạ trên diễn đàn Quốc hội nhưng lại không có gì mới lạ ở ngoài xã hội. Nói cách khác, những điều họ nói chúng ta đã từng nghe rất quen thuộc trong các cuộc chuyện trò giữa những người dân với nhau.
Thứ hai, những phát biểu của họ tuy mới lạ trên diễn đàn Quốc hội nhưng lại không có gì mới lạ ở ngoài xã hội. Nói cách khác, những điều họ nói chúng ta đã từng nghe rất quen thuộc trong các cuộc chuyện trò giữa những người dân với nhau.
Tôi có dịp gặp khá nhiều trí thức Việt Nam sang Úc. Tất cả đều thấy
rõ những thử thách mà Việt Nam đang đối diện. Thứ nhất là nguy cơ xâm
lấn của Trung cộng không những bằng quân sự trên biển đảo mà còn bằng
con đường kinh tế nhằm lũng đoạn thị trường và làm tha hóa con người
Việt Nam. Thứ hai là quốc nạn tham nhũng càng lúc càng phổ biến và trầm
trọng ở mọi nơi và mọi cấp. Thứ ba là kinh tế càng ngày càng kiệt quệ,
ngân sách bị bội chi, nợ công thì chồng chất. Thứ tư là, về phương diện
xã hội, nạn kẹt xe và tai nạn giao thông rất cao, thực phẩm bị nhiễm
độc, gây ra những chứng bệnh hiểm nghèo, đặc biệt là ung thư thuộc loại
nhiều nhất thế giới. Thứ năm là sự băng hoại của đạo lý, sự xuống cấp
của giáo dục, quan hệ giữa người với người càng lúc càng trở nên lạt
lẽo, ai cũng chỉ biết lo cho chính bản thân mình và vô cảm trước những
thử thách và nguy hiểm lớn lao của đất nước.
Tất cả những vấn đề tôi tóm tắt ở trên, hầu như ai cũng biết. Người
sống ở hải ngoại biết. Người sống trong nước cũng biết, thậm chí, biết
còn rõ và sâu hơn cả những người hiện đang sống ở hải ngoại. Tất cả các
bài viết phê phán Việt Nam từ trước đến nay, dưới nhiều hình thức khác
nhau, không thể vượt qua được những nhận xét có tính bao quát ấy. Thế
nhưng, ở đây lại nảy ra một vấn đề: Tại sao những chuyện ai cũng biết ấy
lại không dẫn đến bất cứ một hành động nào nhằm làm thay đổi hiện trạng
tại Việt Nam? Tại sao mọi ước muốn dân chủ hóa Việt Nam vẫn lâm vào bế
tắc?
Theo tôi, có hai lý do chính:
Thứ nhất, mọi người cứ cho việc thay đổi hiện tình chính trị Việt Nam
là nhiệm vụ của... người khác. Người khác đó là ai? Không nói ra nhưng
hầu như mọi người đều cho đó là trách nhiệm của giới lãnh đạo. Dường như
mọi người đều quên bẵng câu châm ngôn đã thành truyền thống lâu đời:
"Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Không chừng đó là hậu quả của
chính sách tuyên truyền thâm độc của nhà cầm quyền và đảng cầm quyền lâu
nay: "Đồng bào đừng lo, đã có đảng và nhà nước lo". Điều oái oăm là
ngay cả giới lãnh đạo cũng có tâm lý ấy. Còn nhớ, vào đầu năm 2014,
trong một cuộc họp báo tại Philippines, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng
hùng hồn tuyên bố "Không đánh đổi chủ quyền lấy tình hữu nghị viễn
vông". Nghe rất sướng tai!
Nhưng lời phát biểu ấy ấy hoàn toàn không biến thành hành động.
Nguyễn Tấn Dũng cũng không hề cố gắng để biến nó thành hành động.
Không chừng ông xem việc cụ thể hóa nhận xét ấy là nhiệm vụ của... người
khác. Trương Tấn Sang, nguyên Chủ tịch nước, cũng vậy. Trong suốt nhiệm
kỳ của ông, ông nhiều lần lên án tệ nạn tham nhũng. Ông ví tham nhũng
như một 'bầy sâu tàn phá đất nước'. Nhìn bản đồ tham nhũng thế giới,
trong đó, Việt Nam chiếm một vị trí rất cao, ông "buồn lắm, xấu hổ lắm".
Nhưng ông cũng không hề biến việc bài trừ tham nhũng thành một chính
sách hoặc tìm cách tiến hành các chính sách ấy một cách hữu hiệu. Ông
chỉ than thở. Hết lần này đến lần khác. Trong cả nhiệm kỳ. Dường như với
ông, việc thực hiện các nỗ lực bài trừ tham nhũng là việc của người
khác. Không dính dáng gì đến ông cả.
Lý do thứ hai khiến mọi người, sau khi đã nhận thức được đúng đắn
tình hình Việt Nam mà vẫn bất động, theo tôi, là sự tuyệt vọng. Người ta
chỉ hành động khi có niềm tin. Nhưng niềm tin vào tương lai của đất
nước thì hoàn toàn tắt ngấm. Không ai hy vọng là Việt Nam có thể thoát
ra khỏi vòng kim cô của Trung cộng. Không ai hy vọng là nạn tham nhũng
tại Việt Nam sẽ biến mất hoặc giảm thiểu. Không ai hy vọng chính phủ sẽ
vực dậy được kinh tế, tránh tình trạng bội chi, kìm hãm nợ công, cải
thiện nền giao thông, y tế và giáo dục trong nước. Tâm trạng ấy được thể
hiện rõ nhất là qua câu nói cửa miệng của mọi người: "Cái nước mình nó
thế". Tôi đã từng phân tích và phê phán câu nói ấy: Nó vừa sai vừa thể
hiện tâm lý đầu hàng.
Xưa, Việt Nam không thế. Ngay ở miền Nam, trước năm 1975, Việt Nam
cũng không như thế. Sự khốn cùng và bế tắc của Việt Nam hiện nay không
nằm ở tính cách hay bản chất của người Việt Nam. Nó nằm ở chỗ khác: Lãnh
đạo. Nó thuộc về chính trị chứ không phải là dân tộc tính.
Chính hai tâm lý vừa tuyệt vọng vừa cho việc cứu nước là nhiệm vụ của
người khác đã biến mọi người, dù nhận thức đúng, vẫn trở thành dửng
dưng, vô cảm và bất lực trước những hiểm họa mà đất nước đang đối diện.
Muốn thay đổi tình trạng ấy, vấn đề không phải là thay đổi nhận thức mà
là thay đổi tâm lý để mọi người không chờ đợi vào đảng hay nhà nước mà
phải tự mình gánh vác lấy trách nhiệm./.
Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment