Thứ Bảy, 30.04.2016
Hôm nay là ngày 30 tháng 4, ngày mà cách đây đúng 41 năm, CS Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam bằng vũ lực. 41 năm cả nước chịu sự thống trị của đảng CSVN thật đã quá đủ đối với dân tộc Việt. Thế nhưng, để đất nước sớm thoát khỏi sự thống trị này, toàn dân Việt cần nhận thức rõ nguyên nhân nào đã dẫn đến biến cố đau thương này. Kính mời quí thính giả theo dõi bài quan điểm của LLCQ về Bài học 30 tháng 4.
Ngày 30 tháng Tư lại đến với dân tộc Việt. Sau 41 năm kể từ năm 1975,
nếu nhật kỳ 30 tháng 4 còn hàm chứa sự vui mừng, hả hê của một số
người, thì đây chỉ là cảm nghĩ của một thiểu số rất nhỏ so với đại khối
dân tộc. Thiểu số này là thành phần ngày nay đang nắm trong tay quyền
làm chủ nhân ông đất nước, tự tung tự tác, đứng ngoài và đứng trên luật
pháp quốc gia. Nói rõ ra, đây là thiểu số chóp bu lãnh đạo đảng CSVN.
Còn đối với đại đa số dân chúng, ngày 30 tháng 4 đã trở thành một
nhật kỳ biểu tượng cho cay đắng, ngậm ngùi, mất mát, ngày mà sự lừa đảo,
dối gạt đã chiến thắng sự chân chính, ngay thật. Đây không phải chỉ là
tâm trạng của dân chúng Miền Nam, thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hay
bên "thua cuộc", mà là của cả đông đảo người dân miền Bắc, thành phần mà
vào tháng Tư Năm 75, thuộc bên "thắng cuộc". Và đây cũng không phải chỉ
là tâm trạng của dân chúng bình thường, mà còn là của một số không nhỏ
chính những đảng viên Đảng CSVN, những người đã đổ bao mồ hôi, nước mắt,
và cả sinh mạng, để góp phần tạo nên cái gọi là "Đại thắng Mùa Xuân 30
tháng 4" của Đảng.
Trong bối cảnh đó, đại khối dân tộc có thể rút tỉa được một số bài học quý giá qua biến cố 30 tháng 4.
Đối với dân chúng miền Nam, bài học quan trọng hàng đầu là mỗi người
dân phải ý thức trách nhiệm của mình đối với đất nước, và tự mình chu
toàn trách nhiệm này, không thể trốn tránh hoặc trông cạy vào người
khác. Nhìn vào miền Nam trước 75, phải thành thật nhìn nhận rằng một số
không nhỏ dân chúng đã thờ ơ với thời cuộc. Sự thờ ơ này thể hiện rõ
ràng nhất là tệ nạn trốn lính, lính ma, lính kiểng. Tương tự, trong khi ở
chiến trường, binh sĩ phải hy sinh gian khổ, thì tại hậu phương thành
thị, dân chúng vẫn nhởn nhơ vui chơi, đua nhau làm giầu, kể cả bằng
những phương cách bất chính.
Vì vậy biến cố đau thương 30 tháng 4 năm 75 xẩy đến không phải chỉ vì
cấp lãnh đạo miền Nam thiếu viễn kiến và khả năng, mà còn vì một số
đông - rất đông, dân chúng miền Nam không có tinh thần trách nhiệm, ích
kỷ, ỷ lại vào người khác.
Cũng vậy, Miền Nam mất không phải hoàn toàn vì "đồng minh tháo chạy"
hay "Hoa Kỳ bỏ rơi", mà vì tinh thần vọng ngoại mù quáng của một số
không nhỏ. Nhân dân Miền Nam không tự đứng nổi trên đôi chân của chính
mình, thì làm sao có thể trông đợi hay đòi hỏi ngoại nhân giúp đỡ để
bước tới. Sẽ không có một thế lực ngoại bang nào giúp chúng ta trong
điều kiện như vậy, trừ khi họ giúp đỡ để rồi chiếm đọat luôn đất nước
chúng ta.
Đối với dân chúng miền Bắc, bài học 30 tháng 4 cũng khá đắt giá! Đành
rằng vì bị tuyên truyền phỉnh gạt, số đông đã chấp nhận gian khổ, hy
sinh kể cả mạng sống, để gọi là "giải phóng miền Nam", nhưng khi đã nhìn
rõ sự thật, biết mình bị lừa dối, thì vì "sợ hãi", đại đa số đã chấp
nhận thái độ "hèn", theo lối nói của nhạc sĩ Tô Hải, tiếp tục cúi đầu
khuất phục Đảng. Chính sự vì sự khuất phục này, Đảng CS ngày càng lộng
hành, đạp trên đầu trên cổ nhân dân.
Ở đây, cần phải vạch rõ trách nhiệm của những đảng viên cao cấp, mặc
dù đã nhìn rõ những sai hỏng của Đảng và trong tay có một số quyền lực,
nhưng chỉ dám lên tiếng khi về hưu, còn lúc tại chức vẫn "ngậm miệng ăn
tiền".
Dĩ nhiên chúng ta không thể phủ nhận sự can đảm, kiên cường của một
số, dù rất ít, dân chúng miền Bắc đã dám đứng lên chống đối Đảng, trong
đó phải kể đến các văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm của những năm
1950, những đảng viên phản tỉnh trong vụ án "Xét lại chống Đảng" trong
những năm 1960-1970. Và trong thời gian qua, mặc dù phải đối đầu với sự
trấn áp man rợ của nhà cầm quyền CS, phong trào đối kháng vẫn lan rộng,
quy tụ nhiều thành phần, từ thanh niên, sinh viên, đến một số văn nghệ
sĩ, trí thức, và cả một số đảng viên bỏ đảng, cùng với sự hình thành
những tổ chức xã hội dân sự độc lập. Tuy nhiên, nói về lượng, con số này
vẫn còn khá khiêm nhường so với nhu cầu thay đổi vận mệnh đất nước.
Những bài học trên, dù liên hệ đến biến cố 30 tháng 4 của 41 năm trước, nhưng nay vẫn còn nguyên giá trị đối với dân tộc Việt.
Hơn bất cứ lúc nào, đây là lúc mọi người dân phải ý thức trách nhiệm
của mình đối với đất nước, đặc biệt là trong lúc hiểm hoạ Bắc thuộc đang
đè nặng trên quê hương. Từ ý thức trách nhiệm, mỗi người phải vượt lên
"nỗi sợ", dấn thân hàng động, không thể trông đợi kẻ khác làm thay mình.
Kinh nghiệm gần đây qua biến cố Mùa Xuân Ả Rập cho thấy, khi số đông
dân chúng quyết tâm đứng lên thì thành phần cai trị, dù sắt máu đến đâu
cũng phải chùn bước và chung cuộc phải sụp đổ. Tương tự, khi thấy chính
dân chúng một quốc gia tự đứng lên đấu tranh cho quyền sống của mình thì
các thế lực ngoại bang, dù không muốn, cũng phải ngả theo yểm trợ.
Và hơn bất cứ lúc nào, đây là lúc những cán bộ, đảng viên Đảng CSVN
đã nhận biết được sự thoái hoá, phản bội của Đảng này, cần mạnh dạn cất
cao tiếng nói, kiên cường hành động để đẩy đảng ra bên lề lịch sử, như
đã xẩy ra tại Liên Sô và các nước Đông Âu 25 năm trước. Thái độ và hành
động này vừa là cách thức để chuộc lỗi với Dân tộc về công sức mà họ đã
bỏ ra để xây dựng và củng cố bộ máy phản dân hại nước, và cũng vừa để
phục hồi lại phẩm giá của những người thật tâm yêu nước, lúc nào cũng
quyết tâm thực hiện lý tưởng của mình./.
Lực Lượng Cứu Quốc
No comments:
Post a Comment