Kính thưa quý thính giả,
Cuối đời Hậu Lê, nước Việt có 3 vương quyền cùng tồn tại. Ngoài Bắc có vua Lê – Chúa Trịnh, trong Nam có Chúa Nguyễn, vùng Tây Bắc thuộc về nhà Mạc. Triều đình nhà Mạc đã kéo dài khoảng 65 năm, trước khi bị Chúa Trịnh tiêu diệt. Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Thái Tổ Mạc Đăng Dung” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Việt Thái
Thái tổ Mạc Đăng Dung xuất thân từ một gia đình ngư dân nghèo ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay thuộc Hải Phòng). Ông là hậu duệ đời thứ 7 của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi ở Lũng Động, Hải Dương, đến đời Tổ phụ là Mạc Đăng Bình lại từ Thanh Hà chuyển cư xuống Cổ Trai.
Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên ông phải bỏ dở việc học hành để giúp gia đình sinh sống bằng nghề đánh cá và chèo đò. Nhờ sức khỏe và chí lớn đã giúp ông dựng nghiệp đế vương.
Từ một chàng trai nổi tiếng khắp vùng về môn đánh vật, ông đã thi đỗ Đệ nhất Đô lực sĩ (Trạng nguyên võ) dưới triều vua Lê Uy Mục và được sung vào đội Túc vệ quân, được đặc cách thăng lên Đô chỉ huy sứ Vệ Thiên Vũ.
Năm 1511, được phong tước Vũ Xuyên Bá, làm Trấn thủ Sơn Nam, được phong chức Phó tướng Tả đô đốc. Sau đó thăng lên chức Vũ Xuyên Hầu và chuyển ra trấn thủ Hải Dương. Sau đó, được phong tước Minh Quận Công.
Đầu năm 1520, giữ chức Tiết chế Thủy lục quân 13 đạo (tức Tổng tư lệnh quân đội).
Năm 1521, được thăng Thái phó, tước Nhân Quốc Công. Sang thời vua Lê Cung Hoàng, nhờ công dẹp loạn, ông lại được thăng tước Bình chương quân Quốc trọng sự Thái phó Nhân Quốc công.
Đầu năm 1527, với ân sủng đặc biệt, vua Lê Cung Hoàng thăng cho ông tước Thái sư An Hưng Vương. Ngày 15/6/1527, ông truất phế vua Lê Cung Hoàng, lên ngôi và lập ra nhà Mạc, lấy niên hiệu là Minh Đức.
Do biết chiêu hiền đãi sĩ nên quanh ông có nhiều người tài trí và được sự đồng tâm của thần dân nên chỉ vài năm sau, ông đưa đất nước vào thế ổn định vững vàng.
Tháng 3 năm 1529, nhà Mạc đã mở khoa thi Hội đầu tiên lấy 27 Tiến sĩ. Kể từ đó, cứ cách 3 năm mở một khoa thi, tất cả được 22 lần, tổng cộng có 499 người đỗ Tiến sĩ, với 13 người đỗ Trạng nguyên. Số lượng khoa cử và số nhân tài trúng tuyển tương đương với thời vua Lê Thánh Tông.
Sau 3 năm lên ngôi, nhận thấy guồng máy triều chính đã vận hành nhịp nhàng, đúng theo sở nguyện nên ông quyết định truyền ngôi cho con trưởng là Mạc Đăng Doanh, tức Mạc Thái Tôn và lui về Cổ Trai.
Suốt 10 năm sau đó, trong cương vị Thái thượng hoàng, ông cố vấn cho triều đình, đưa đất nước trở về thời thịnh trị với những thành tựu trên nhiều lãnh vực như: văn hóa, chính trị và kinh tế…
Năm 1540, Mạc Đang Doanh băng hà, ông lập cháu nội là Mạc Phúc Hải lên ngôi, tức vua Mạc Hiến Tôn. Một năm sau ông qua đời, hưởng thọ 59 tuổi. Trước khi mất, ông để lại di chúc căn dặn triều đình không làm đàn chay và dặn dò Mạc Phúc Hải phải gìn giữ sơn hà xã tắc.
* * *
Không ai có thể phủ nhận nhà Hậu Lê vào những năm cuối cùng vô cùng thối nát, giặc giã nổi lên khắp nơi khiến trăm họ điêu linh. May mắn là trong giờ phút đen tối, có Mạc Đăng Dung xuất hiện để cứu giống nòi ra khỏi họa nội xâm và ngoại xâm. Một điểm đáng khâm phục hơn nữa là không giống như Trần Thủ Độ lúc soán ngôi nhà Lý, ông đã không tàn sát, đuổi tận giết tuyệt con cháu và giới quan lại trung thành với nhà Lê. Và cũng không đập phá lăng miếu các vua Lê, mà trái lại còn ra lệnh tu bổ các lăng tẩm ở vùng Thanh Hóa.
Chính tấm lòng bao dung của ông đã thu phục được nhân tâm, được nhiều người tài đức ra sức cống hiến giúp nhà Mạc. Cho dù sau này nhà Lê trung hưng, nhà Mạc bị diệt vong, nhưng nhiều lớp sĩ phu vẫn tưởng nhớ đến vị vua có tấm lòng yêu nước thương dân như ông.
Điều đáng nói là không chỉ có các lớp sĩ phu mấy trăm năm trước tưởng nhớ đến vị vua xuất thân bần hàn đó, mà các thế hệ sau này cũng đang hy vọng có được một Mạc Đăng Dung xuất thế để giải cứu dân tộc Việt ra khỏi thảm họa đỏ hiện nay.
Lý do tương tự như thời Lê mạt vào đầu thế kỷ 16, thực trạng đất nước hiện cũng đang thối nát dưới sự thống trị của đảng cộng sản VN. Mặc dù chưa có cảnh giặc giã nổi lên khắp nơi, nhưng nạn tham nhũng ngày càng phá nát xã hội và hủy diệt nền đạo đức ngàn đời của dân tộc. Thê thảm hơn nữa là lũ giặc phương Bắc đang từng bước lấn chiếm đất Việt với sự u mê, cúi đầu đồng thuận của tập đoàn lãnh đạo CSVN.
Trừ phi chấp nhận làm nô lệ cho Tàu Cộng, nếu không thì dân tộc Việt không còn lựa chọn nào khác hơn là noi gương dũng cảm của Thái tổ Mạc Đăng Dung, cùng nhau vùng lên giải thể chế độ cộng sản. Được như thế người dân mới có Tự do, Dân chủ thật sự, đất nước VN mới có cơ hội phục hưng để viết lên trang sử mới cho Tổ tiên và các bậc Tiền nhân được an nghỉ./.
No comments:
Post a Comment