Kính thưa quý thính giả, trong lịch sử giáo dục của nước Việt từ thế
kỷ 15 đến thế kỷ 19, có hai người luôn được suy tôn là phu tử, đó là
Tuyết Giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm ở xứ Đông, Hải Dương và La Sơn phu
tử Nguyễn Thiếp, người xứ Hồng Lam, Nghệ Tĩnh. Tuy đã mất vào cuối đời
Hậu Lê và Tây Sơn cách đây hơn 200 năm, nhưng danh tiếng của La Sơn phu
tử vẫn mãi được kính trọng vì tính khí thanh cao của một nhà Nho và là
một người thầy có tâm sáng, luôn hướng đến việc ích nước lợi dân, giúp
vua Quang Trung phát huy nền văn hóa giáo dục. Qua chuyên mục Danh Nhân
Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “La Sơn Phu
Tử Nguyễn Thiếp” của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh và Minh
Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Việt Thái
Lục Niên phu tử trung hưng quốc,
Tam thế tằng tôn bái ngoại gia.
Tạm dịch:
Phu tử sáu năm chấn hưng đất nước,
Cháu chắt ba đời kính bái ngoại gia.
Tam thế tằng tôn bái ngoại gia.
Tạm dịch:
Phu tử sáu năm chấn hưng đất nước,
Cháu chắt ba đời kính bái ngoại gia.
Đó là hai câu đối do Tiến sĩ Nguyễn Văn Trình viết trong từ đường thờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp.
Nguyễn Thiếp tự là Khải Xuyên, sinh năm 1723 tại làng Nguyệt Ao, huyện La Sơn, trấn Nghệ An, nay thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông có nhiều tên hiệu, được biết nhiều nhất là La Sơn Phu Tử, Hạnh Am và Lạp Phong Cư Sĩ.
Năm 20 tuổi, Ông đỗ giải Hương, được bổ làm Huấn đạo rồi thăng Tri huyện Thanh Chương. Năm 1756, Ông làm Huấn đạo ở huyện Anh Đô, thăng Tri huyện Thanh Giang. Sau 13 năm, Ông từ chức, về lập trại Bùi Phong dưới chân núi Thiên Nhẫn ở Nam Đàn dạy học, bắt đầu sống cuộc đời ẩn cư với danh hiệu La Sơn Phu Tử.
Năm 1775, Trần Văn Kỷ, một cận thần của Nguyễn Huệ ra Thăng Long để chiêu mộ sĩ phu Bắc Hà về với nhà Tây Sơn. Khi Trần Văn Kỷ hỏi Nguyễn Nghiễm, một bậc nguyên lão khả kính về nhân tài của đất Việt thì được trả lời: “Đạo học sâu xa thì Lạp Phong Cư Sĩ, văn phong phép tắc thì Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, còn thiếu niên đa tài đa nghệ chỉ có Nguyễn Huy Tự”. Nhân vật mà “đạo học sâu xa”, có danh hiệu Lạp Phong Cư Sĩ, chính là Nguyễn Thiếp.
Năm 1780, chúa Trịnh Sâm mời La Sơn phu tử ra Thăng Long. Gia phả dòng họ Nguyễn viết rõ ý định của Trịnh Sâm bấy giờ là muốn lật đổ nhà Lê, nhưng ông kiên quyết can ngăn.
Sau khi lên ngôi Hoàng đế, vua Quang Trung kéo đại quân Tây Sơn ra Bắc để quyết chiến với quân Mãn Thanh. Trên đường hành quân, Nguyễn Huệ ghé qua Nghệ An thăm hỏi La Sơn Phu Tử. Nhà vua hỏi:“Quân Thanh sang đánh, nay ta đem quân chống cự, về kế công thủ và số được thua, tiên sinh cho biết thế nào?”. Nguyễn Thiếp bình thản trả lời:“Quân Thanh ở xa, tình hình quân ta mạnh hay yếu địch không biết, thế công thế thủ địch không hay. Chúa công ra đánh trận này chẳng qua mươi ngày là giặc Thanh sẽ tan”.
Quả đúng như nhận định của La Sơn phu tử, ngày mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn đã đánh tan hơn 20 vạn quân Thanh, tiến vào thành Thăng Long.
Sau chiến thắng này, vua Quang Trung mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân bàn việc nước. Ông đã dâng lên nhà vua một tấu chương lấy dân làm gốc với 3 tiết mục: Quân đức, Dân tâm và Học pháp. Nội dung “Quân đức” là khuyên vua nên theo đạo thánh hiền để trị nước. “Dân tâm” là dùng nhân nghĩa để thu phục lòng người. “Học pháp” là chăm lo việc giáo dục. Ông được bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện Sùng Chính và vua Quang Trung giao cho Ông thực hiện 3 chủ trương:
– Chấn hưng và đề cao chữ Nôm.
– Dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm.
– Đưa chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của nước Việt.
Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm để dạy học. Chỉ trong hai năm, ông đã dịch xong các sách Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách “Thi kinh giải âm” và “Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa”.
Tháng 9 năm 1792, vua Quang Trung đột ngột băng hà, sự nghiệp của Nguyễn Thiếp trở thành dở dang. Năm 1802, khi triều Tây Sơn bị sụp đổ, Nguyễn Thiếp lui về ở ẩn tại trại Bùi Phong và mất vào ngày 6 tháng 2 năm 1804, hưởng thọ 81 tuổi.
Ông để lại hơn 100 tác phẩm. Thơ văn của ông giản dị, mộc mạc, được Phan Huy Chú khen là “thơ đều tao nhã thanh thoát, lý thú thung dung, thực là lời nói của người có đức, các tao nhân mặc khách khác không thể sánh được”.
Kể từ đó, nhiều con đường và trường học đã mang tên Nguyễn Thiếp để nhớ đến một nhân tài tâm đức của nước Việt.
* * *
Theo nhiều giai thoại thì khi ra Bắc lần đầu tiên, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã 3 lần đích thân đến nhà La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp để mời ông ra giúp sức. Nhưng vì tấm lòng trung thành với nhà Lê, nên mãi đến khi vua Lê Chiêu Thống dẫn quân Thanh xâm lược thì ông mới quyết tâm phò tá vua Quang Trung, mà điển hình là danh xưng “Chúa công” trong câu trả lời của ông về kế sách đánh quân Thanh của vua Quang Trung.
Cũng kể từ đó, vị kẻ sĩ lỗi lạc ở Bắc hà đã không tiếc công sức trợ giúp triều đình Tây Sơn thống nhất sơn hà, chấn hưng đất nước và củng cố nền độc lập. Lần đầu tiên trong lịch sử nước Việt, chữ Nôm được ấn định là quốc ngữ trong nền giáo dục, thay vì phải học chữ Hán như ngàn năm trước, nên La Sơn phu tử được xem là người có công lớn nhất trong cuộc cách mạng văn hóa và giáo dục thời này.
Điều đáng tiếc là vua Quang Trung mất quá sớm, triều đình Tây Sơn cũng sụp đổ, nên sứ mạng lịch sử của La Sơn phu tử phải nửa đường gẫy gánh. Thế nhưng cái tên Nguyễn Thiếp vẫn chói sáng trong nền học thuật VN, với những tác phẩm đồ sộ mà hậu thế khó có ai sánh bằng.
Trong những ngày đầu năm Kỷ Hợi, khi tưởng nhớ đến chiến thắng Đống Đa, người dân Việt trong và ngoài nước cũng nên thắp nén hương lòng để tưởng nhớ về một danh nhân luôn vì dân vì nước khi dâng lên 3 kế sách trị quốc cho vua Quang Trung. Nhưng điều đáng suy ngẫm nhất là, trong tình thế tăm tối của đất nước hiện nay, dân tộc Việt rất cần nhiều kẻ sĩ như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp xuất hiện mới có hy vọng chận đứng được hiểm họa mất gốc và mất nước!
No comments:
Post a Comment