Thứ Bảy, 20.02.2016
Kính thưa quý thính giả,
Cách đây 1078 năm, đức Ngô Quyền đã lãnh đạo quân dân nước Việt tiêu diệt đạo quân Nam Hán xâm lược trong trận Bạch Đằng Giang năm 938, chính thức kết thúc hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ cho dân tộc Việt. Thứ Năm tuần sau, 25/2/2016 là ngày giỗ của Ngài. Để tưởng nhớ công đức cao dầy của đức Ngô Quyền và thế hệ Ngô Vương, trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Đức Ngô Quyền và trận Bạch Đằng Giang" của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để chấm dứt chương trình tối hôm nay.
Vương nghiệp tại Loa thành, trường biên thanh sử.
Chiến công lưu Đằng thủy, công mộc hồng ân.
Nghĩa là:
Vương nghiệp khởi từ Loa thành, mãi lưu trong sử sách.
Đó là hai câu đối lớn trong đình Hàng Kênh ở Hải Phòng, xây dựng vào năm 1718.
Đức Ngô Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898). Cha là Ngô Mân, Châu mục của châu Đường Lâm.
Ngô Quyền dáng người khôi ngô, có sức mạnh phi thường, được sử sách
mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, trí dũng song toàn. Thời niên thiếu của
Ngô Quyền cũng là thời kỳ cực suy của nhà Đường tại An Nam. Vì vậy, Đô
hộ phủ An Nam ngày càng bất lực trong việc khống chế các thế lực bên
trong và ngoài. Người Nam Chiếu đã liên tục tấn công Giao Châu từ năm
858 đến năm 866.
Tại Trung Hoa, cuộc nổi loạn An Sử của An Lộc Sơn và vụ khởi nghĩa
của Hoàng Sào, làm cho nhà Đường phải chật vật đối phó, khiến cho việc
quyền lực của nhà Đường đối với An Nam ngày càng suy yếu.
Năm 931, thế lực họ Dương ở Ái Châu lật đổ guồng máy cai trị của nhà
Nam Hán, đánh bại Lý Tiến, Trần Bảo ở thành Đại La. Hào trưởng Dương
Đình Nghệ trở thành Tiết Độ Sứ của chính quyền người Việt.
Thế lực họ Dương nắm quyền ở Đại La được sự ủng hộ của nhiều thế lực
địa phương khác, trong đó có dòng họ Ngô. Sau khi kết hôn với con gái
của Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền trở thành một tướng lãnh của Dương Đình
Nghệ, được giao quyền cai quản vùng Ái châu vào năm 932.
Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn hạ sát Dương
Đình Nghệ đoạt chức vị Tĩnh Hải Quan Tiết Độ Sứ. Sau vụ này, họ Kiều bị
nhiều thế lực địa phương chống đối và nội bộ họ Kiều cũng bị chia rẽ
trầm trọng. Trước tình thế đó, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam
Hán. Nghe hung tin, Ngô Quyền liền tập hợp mọi lực lượng, kéo quân ra
Bắc giết chết Kiều Công Tiễn và chuẩn bị cuộc quyết chiến với quân Nam
Hán.
Năm 938, Ngô Quyền chỉ huy cuộc chiến đánh quân Nam Hán ở sông Bạch
Đằng. Lợi dụng mức thủy triều lên xuống của sông Bạch Đằng, Ngài sai
quân đóng cọc dưới lòng sông, đầu cọc bịt sắt nhọn. Khi thủy triều lên
cao thì bãi cọc bị che khuất, Ngài dùng kế nhử quân Nam Hán vào khu vực
này và đợi thủy triều rút xuống làm cho thuyền quân Nam Hán bị mắc cạn
mới điều động thủy quân dùng thuyền nhỏ lao ra công hãm.
Quân Nam Hán đại bại, Thái tử Nam Hán là Lưu Hoằng Tháo thiệt mạng
cùng với hơn phân nửa số quân sĩ. Kể từ đó, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc
mộng xâm chiếm An Nam.
Chiến thắng của đức Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm
dứt cuộc xâm lược của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc luôn thời kỳ
đô hộ của giặc Tàu hơn một ngàn năm.
Năm 939, đức Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô.
Ngài trị vì được 6 năm, được con dân Việt xem là vị đại anh hùng của dân
tộc và là vị Tổ trung hưng của nước Việt.
Ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thìn (944), Ngô Vương băng hà, hưởng
dương 47 tuổi. Sử sách gọi Ngài là Tiền Ngô Vương. Người dân Việt lập
đền thờ và lăng ở Đường Lâm. Tại khu vực hạ lưu sông Bạch Đằng có hơn 30
đền và miếu thờ đức Ngài cùng thế hệ Ngô Vương.
* * *
Gần như mọi người Việt dù không đọc sử thì cũng nghe câu hát "một
ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây....", thế nhưng
điều trớ trêu là hàng ngàn năm qua dân tộc VN dường như đã quên lãng
hoàn toàn công lao to lớn của đức Ngô Quyền, người đã giúp giòng giống
Tiên Rồng chấm dứt một ngàn năm Bắc thuộc.
Điểm qua những lễ hội tưởng nhớ công đức của các bậc tiền nhân đã
dựng nước và giữ nước, chúng ta có thể nhận thấy rất nhiều lễ lạc trên
khắp mọi miền nhằm tưởng niệm các vị anh hùng như Thánh Gióng "Phù Đổng
Thiên Vương", nhị vị Trưng Nữ Vương, Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn,
đức Lê Lai – Lê Lợi và đức Quang Trung .v.v...
Không nói đâu xa, ngay dưới thời đệ nhất và đệ nhị Cộng hòa ở miền
Nam, ngày giỗ các vị vừ nêu đều được xem là quốc lễ, nhưng không hề có
ngày tưởng niệm đức Ngô Quyền. Tại sao có chuyện lãng quên như thế?
Không lẽ là vì sau khi Ngô vương Quyền băng hà, đất nước rơi vào tình
trạng Thập nhị Sứ quân đầy loạn lạc, nên hậu thế xem đó là một trọng tội
của Ngài và không muốn nhắc đến công lao giành lại nền tự chủ cho dân
tộc sau cả ngàn năm Bắc thuộc?
Chắc chắn không phải như thế. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bị
quân Tàu dẹp tan sau vài năm, nhưng vẫn được dân tộc Việt hãnh diện suốt
mấy ngàn năm qua thì tại sao lại không xem trọng vị anh hùng Ngô Quyền
và chiến thắng Bạch Đằng đầu tiên trong lịch sử chống phương Bắc của
quân dân nước Việt? Không lẽ câu đối đầy ngạo nghễ "Đằng giang tự cổ
huyết do hồng" của Thám hoa Giang Văn Minh tại triều đình nhà Minh là
chỉ nhằm nói đến chiến thắng Bạch Đằng của đức Trần Hưng Đạo trong cuộc
chiến chống quân Nguyên?
Nguyên nhân nào dẫn đến việc "bên trọng bên khinh"? Chúng ta cần tìm
hiểu cặn kẽ, để trả lại chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử cho đức Ngô
Quyền. Nhưng việc làm này có thể được hoãn lại trong bối cảnh dân tộc
sắp lâm vào vòng nô lệ phương Bắc, dưới sự tiếp tay của bọn thái thú
cộng sản đang ngự trị ở Ba Đình. Đây là lúc mà dân tộc đang cần có những
con người trí dũng song toàn như đức Ngô Quyền để diệt trừ những Kiều
Công Tiễn đang "rước voi về dày mả tổ", để chận đứng thảm họa mất nước
và diệt tộc.
Và tạm thời trong lúc này, việc lấy ngày 18 tháng Giêng âm lịch, tức
ngày băng hà của đức Ngô vương làm ngày giỗ như Tập Hợp Đồng Tâm ở Úc
châu đã và đang làm mỗi năm là một điều rất có ý nghĩa.
Ý nghĩa lớn nhất là nhằm nhắc nhở con dân Việt về tình trạng dầu sôi
lửa bỏng hiện nay của đất nước không khác gì bối cảnh "thù trong giặc
ngoài" mà đức Ngô Quyền phải trực diện vào một ngàn năm trước!
Việt Thái
No comments:
Post a Comment