Thứ Hai, ngày 05.05.2014
Sự sụp đổ của cộng sản chủ nghĩa đã
diễn ra trên khắp thế giới văn minh và sự sụp đổ của chế độ CSVN là một
định luật tất yếu. Mời quý thính giả nghe phần Bình Luận của Nguyễn
Hưng Quốc với tựa đề: "Sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam" sẽ
được Hướng Dương trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm
nay.
Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa
cộng sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng
sản. Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia,
Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung
Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới
là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada,
Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng
danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng
sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt
sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng
sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.
Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.
Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng
nòng cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất
mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá
nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các
cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi
dậy nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam
hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân
làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh
niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này
chưa đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng
sản vẫn chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.
Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa
của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn
bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.
Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.
Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói,
bất công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi
bày trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai
không còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng
bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo
thành một khoảng trống dưới chân chế độ.
Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế:
chủ nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa,
dựa trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung
Quốc, không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa
Mao là một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn
với Nho giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ...
Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên
cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là
một nhà lý thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều,
nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay,
cũng không có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài
của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục
mọi người. Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không
trám được khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So
với Trung Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.
Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.
Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.
Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao
nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận
dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc
khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước
bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng
yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ
thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và
gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai
kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện
chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm.
Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc
có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.
Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa
quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh
tế với phương châm ổn định và phát triển.
Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính
trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam
hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn
trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi
yêu cầu cải cách chính trị.
Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không
đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty
quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân
chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam
không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại,
chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.
Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam
muốn nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập
luận ổn định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt
Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn
tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng
cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: "Còn đảng, còn mình"; mặt
khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham
nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ
càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng
đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ
này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối
nghịch với quần chúng.
Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.
Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment