Bài học Tập Cận Bình rút ra được từ chiến trường Ukraine là đảng CSTQ không có khả năng xâm chiếm Đài Loan bằng vũ lực, nhưng có dư khả năng gậm nhấm lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam vì sự hèn hạ của đàn em CSVN.
Mời quý thính giả đài ĐLSN nghe phần bình luận của Hiếu Chân với tựa đề: “Từ Ukraine nhìn về Đông Á, đâu là cuộc khủng hoảng kế tiếp?” sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Cuộc chiến tranh xâm lược của ông Vladimir Putin, tổng thống Nga, tại Ukraine làm cho dư luận quốc tế phải nghĩ tới một hành động tương tự của ông Tập Cận Bình, chủ tịch Trung Quốc, ở Đông Á. Nhưng trong hai khu vực bị Trung Quốc nhắm tới – đảo quốc Đài Loan và các nước Đông Nam Á có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh ở Biển Đông như Philippines và Việt Nam – giới phân tích ngày càng nghiêng về khả năng Việt Nam chứ không phải Đài Loan mới là nơi xảy ra cuộc xung đột kế tiếp của thế giới.
Xét về nhiều mặt, Trung Quốc và Nga có nhiều chỗ tương đồng. Cả Bắc Kinh và Moscow đều quyết chống lại vai trò lãnh đạo thế giới của Hoa Kỳ và cái trật tự quốc tế mà Washington duy trì từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Cả Trung Quốc và Nga đều nằm dưới sự cai trị của chế độ độc tài toàn trị, trong đó hai ông Tập Cận Bình và Vladimir Putin đều muốn làm “hoàng đế” trọn đời và đều nuôi tham vọng khôi phục sự vĩ đại của các đế chế Trung Hoa và Nga xưa cũ, thâu tóm những quốc gia mà họ coi là thuộc về các đế quốc của các triều đại phong kiến Trung Hoa và Nga Sa Hoàng.
Nhìn về phương Đông, ông Tập Cận Bình cho rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mà chính phủ Hoa Kỳ mới công bố gần đây cũng nguy hiểm cho an ninh của Trung Quốc như kế hoạch mở rộng NATO đối với an ninh của Nga.
Nhìn bề ngoài, Đài Loan có vẻ như là một mục tiêu dễ chiếm đoạt: một hòn đảo nhỏ chơ vơ giữa biển khơi với 24 triệu dân và lực lượng quân đội chỉ bằng một phần mười so với Trung Quốc. Nhưng thực tế, Đài Loan là một mục tiêu khó nhằn, không chỉ vì eo biển Đài Loan rộng 100 dặm là chướng ngại khó vượt qua cho những cuộc tấn công đổ bộ của Trung Quốc mà còn do nhiều yếu tố khác.
Cũng như Ukraine, Đài Loan là một quốc gia dân chủ, chính phủ được người dân bầu lên một cách tự do và minh bạch. Đại bộ phận người dân Đài Loan, hơn 75%, tự coi mình là người Đài Loan (Taiwanese), không phải là người Trung Quốc (Chinese) nên cuộc xâm lược của Trung Quốc khó mà biện minh được về mặt dân tộc và văn hóa.
Kinh tế Đài Loan có sự gắn bó chặt chẽ với Hoa Kỳ và phương Tây, đặc biệt hòn đảo này cung cấp tới hai phần ba số vi mạch bán dẫn tân tiến cho các nền kinh tế lớn, kể cả Hoa Kỳ, Nhật Bản và Châu Âu.
Đài Loan không chỉ là đối tác kinh tế quan trọng của Hoa Kỳ mà Hoa Kỳ luôn cam kết bảo vệ Đài Loan theo những hiệp định đã ký kết giữa đôi bên, đặc biệt là theo Luật Quan Hệ Đài Loan (Taiwan Relation Act – TRA) mà Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành năm 1979, trong đó trao quyền cho tổng thống Hoa Kỳ quyết định bảo vệ Đài Loan, cả bằng quân sự, một khi hòn đảo này bị xâm lược và được Quốc Hội cho phép.
Tất cả những yếu tố đó buộc ông Tập phải tính toán lại kế hoạch tấn công Đài Loan.
Philippines có hiệp định an ninh hỗ tương với Hoa Kỳ từ năm 1951, theo đó Washington sẽ ra tay bảo vệ Manila nếu đảo quốc này bị tấn công. Cho dù chính quyền hiện thời của Tổng Thống Rodrigo Duterte thường xuyên có những phát biểu phản đối người Mỹ, ngả về Trung Quốc nhưng khi chiến sự nổ ra, Philippines dứt khoát phải dựa vào Mỹ để tồn tại và người Mỹ cũng có nghĩa vụ cùng người Phi chống xâm lược.
Chỉ có Việt Nam, với thể chế Cộng Sản độc tài giống Trung Quốc, với đường lối quốc phòng “bốn không,” với một chính phủ và quân đội yếu kém, tham nhũng tràn lan và lòng dân ly tán, mới là miếng mồi ngon cho tham vọng bành trướng của ông Tập Cận Bình. Vì Hà Nội không liên minh quân sự với nước nào, cũng không nằm trong một liên minh quân sự nào, nên nếu Việt Nam bị Trung Quốc tấn công, Bắc Kinh không sợ bị nước nào chen vào can thiệp hoặc cung cấp vũ khí tân tiến như thế giới đang làm với Ukraine.
Quân đội Việt Nam – vẫn thường vỗ ngực tự hào đã đánh thắng các “đế quốc” to – hiện là một ổ tham nhũng và bất lực. Cư dân mạng những ngày này thường chế giễu quân Nga mất sáu tướng trên chiến trường Ukraine, còn quân đội Việt Nam chưa vào cuộc chiến tranh đã có hàng chục tướng lĩnh phải vào tù vì tham nhũng! Nếu chiến tranh với một đội quân Trung Quốc không chỉ đông hơn gấp nhiều lần mà còn có kho tàng hỏa tiễn hành trình, hỏa tiễn đạn đạo, oanh tạc cơ, chiến đấu cơ, tàu ngầm, tàu chiến và đủ thứ vũ khí tân tiến khác, quân đội Việt Nam chắc chắn sẽ thảm bại nhanh chóng.
Sau nhiều thập niên bị đàn áp tàn bạo dưới chính thể Cộng Sản – mà ngay cả hành động thể hiện lòng yêu nước cũng bị coi là tội hình sự, bị bắt giam, bị đánh đập và tù tội – có thể người dân Việt bây giờ không còn hào hứng với lý tưởng cầm súng bảo vệ tổ quốc khi đất nước bị xâm lăng.
Người ta không thấy ý nghĩa nào trong việc bảo vệ một chế độ Cộng Sản cực quyền, đi ngược những giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền mà cả nhân loại theo đuổi – nhất là khi chế độ đó tỏ ra ngày càng khom lưng uốn gối trước kẻ thù chỉ để duy trì quyền cai trị trên đầu trên cổ người dân. Không nên kỳ vọng người dân thường Việt Nam sẽ cầm súng ra trận, đổ máu để ngăn chặn quân xâm lược như người dân Ukraine đang làm và được cả thế giới cảm phục hiện nay.
Tất cả những yếu tố trên chắc chắn đang được ông Tập Cận Bình và đội ngũ tham mưu của ông ta tính toán, cân nhắc, tìm điểm yếu để ra tay, nhất là khi cuộc chiến Ukraine kết thúc mà nước Nga của ông Putin giành được một số sự nhượng bộ nào đó từ Ukraine. Nhìn từ hướng nào đều thấy số phận nước Việt Nam đều rất bi thảm dưới sự cai trị của tập đoàn Cộng Sản Hà Nội và trước tham vọng bá quyền của Bắc Kinh./.
No comments:
Post a Comment