Lịch sử VN ghi nhận một danh thần có công khai khẩn vùng đất phương Nam, cùng với 7 lần mang quân sang Xiêm La, 2 lần mang quân sang Lào và 11 năm bảo hộ nước Cao Miên. Ông là một người có tầm nhìn chiến lược và là một nhà ngoại giao giỏi, luôn vì nước vì dân, đã chỉ huy đào kinh Vĩnh Tế dài hơn 90 cây số, nối từ Châu Đốc thẳng ra biển Hà Tiên.
Trong
tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả
bài “Thoại Ngọc Hầu” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để
chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại. Do lập được đại công,
được phong tước Hầu, dân chúng kính trọng gọi là Thoại Ngọc Hầu. Do 2 lần sang bảo hộ Cao Miên nên còn được gọi là Bảo hộ Thoại. Ông sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ
(1761), tại làng An Hải, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay
thuộc Đà Nẵng).
Cha ông là Nguyễn Văn Lượng và mẹ là bà Nguyễn Thị Tuyết, cả hai đều
nổi tiếng nhân
hậu và khéo dạy con.
Ngày 21/7/1822, cha ông được vua Minh Mạng sắc phong Anh
dũng Tướng quân Vệ úy Nguyễn Hầu và bà Nguyễn Thị Tuyết được phong tặng mỹ hiệu
Thục Nhân.
Thuở nhỏ, ông theo mẹ vào Nam, định cư tại làng Thới Bình ở cù lao Dài trên sông Cổ
Chiên, tỉnh Vĩnh Long.
Năm 17 tuổi, ông đầu quân Nguyễn Ánh tại
Ba Giồng, Định Tường. Từ
đó, ông có mặt trong
nhiều trận đánh với quân Tây Sơn. Nhiều lần Nguyễn Ánh phải bỏ thành Gia Định
lưu vong, ông đều có
mặt trong đoàn phò giá và được Nguyễn Ánh cử sang Xiêm và Lào xin viện binh.
Năm 1801, quân Nguyễn Ánh trên đà thắng thế, ông chỉ
huy binh sĩ từ Vạn Tượng tiến đánh Phú Xuân, tướng Trần Quang Diệu trấn giữ
thành Qui Nhơn liền mang quân ra cứu viện. Ông giao binh quyền cho phó tướng Lưu Phước Tường rồi bỏ về
Gia Định. Nguyễn Ánh khép tội ông rời bỏ phần nhiệm, giáng cấp xuống làm Cai đội Quản đạo Thanh Châu.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu Gia Long,
thăng thưởng cho tướng sĩ. Ông
được thăng
lên Khâm sai Thống binh Chưởng cơ trấn thủ Bắc Thành.
Năm 1803, ông được giao chức Trấn thủ Lạng Sơn.
Năm 1808, ông được cử làm Trấn thủ Định Tường.
Năm 1813, Chân Lạp xảy ra biến loạn
vì anh em tranh giành ngôi báu, vua Nặc Ông Chân chạy sang nước
Việt nhờ giúp đỡ. Tổng trấn Gia Định
thành là Lê Văn Duyệt và Hiệp Tổng trấn Ngô Nhân Tĩnh cùng Nguyễn Văn Thoại được
lệnh mang 13 ngàn quân đưa Nặc Ông Chân về nước làm vua Chân Lạp. Sau đó, ông ở lại giữ thành Nam Vang, bảo hộ nước Chân Lạp.
Tháng 9 năm 1816, ông xin từ chức vì bệnh nên được triệu về
kinh.
Tháng 6 năm 1817, ông nhận chức Trấn thủ Vĩnh Thanh.
Tháng 9 năm 1818, ông được phong chức Thống Chế, bảo hộ nước Chân Lạp và nhận lệnh đào kinh Đông Xuyên dài
khoảng 30 cây số, từ núi Sập thông qua Rạch Giá.
Năm 1819, ông chỉ huy dân quân đào kinh Vĩnh Tế. Phụ tá cho ông có
Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên, Điều bát Nguyễn Văn Tồn và Trần Công Lại. Kinh đào
gặp nhiều trở ngại nên bị gián đoạn nhiều lần, ông phải huy động đến khoảng 80 ngàn nhân công với dụng cụ thô sơ trong điều kiện hết sức gian khổ.
Đến tháng 5 năm 1824, kinh Vĩnh Tế dài hơn 90 cây số nối từ Châu Đốc thông ra biển Hà
Tiên hoàn thành, ông được vua Minh Mạng khen
ngợi và ban thưởng.
Năm 1820, nước Cao Miên bị nội loạn, triều đình cử ông và Phó thống chế Nguyễn Văn Trí cầm quân dẹp
loạn. Sau khi dẹp loạn xong, vua Cao Miên yêu cầu nước Việt lập lại chức Bảo
hộ.
Năm 1821, ông lãnh ấn Bảo hộ Cao Miên kiêm Quản quân vụ Trấn Hà Tiên.
Năm 1822, ông đặt dinh Bảo hộ tại Châu Đốc, lập làng Thoại
Sơn và lập đoàn quân mang tên An Hải để trấn giữ Hà Tiên.
Năm 1823, ông lập ra 5 làng mới bên bờ kinh Vĩnh Tế là: Vĩnh Tế, Vĩnh Nguơn, Vĩnh
Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông.
Ngày 6 tháng 6
năm Kỷ Sửu
(1829), ông mất
vì bạo bệnh tại Châu Đốc, hưởng thọ 68 tuổi. Lăng Thoại Ngọc Hầu được dân chúng trong vùng xây dựng tại chân núi Sam. Tên ông được đặt cho nhiều con đường trong các tỉnh thành và một
trường trung học tại tỉnh An
Giang.
* * *
Tên tuổi Thoại Ngọc Hầu đi vào sử Việt như là một trong
những công thần đã mở rộng bờ cõi, đặc biệt tại miền Nam. Công lao lớn nhất của
Ông là đào kinh Vĩnh Tế, giúp cho giao thông thuận lợi, mang lại sự trù phú cho
người dân trong vùng. Với công trình vĩ đại này, tên tuổi Thoại Ngọc Hầu đã trở
thành bất tử và xứng đáng được người dân tôn thờ mãi mãi.
Uy viễn Tướng quân Nguyễn Công Trứ mở mang bờ cõi ở
miền Bắc, thì Thoại Ngọc Hầu khai khẩn đất đai ở miền Nam, triều đại nhà Nguyễn
tuy bị phê phán khá nặng nề vì bị thực dân Pháp đô hộ, nhưng ít nhất vẫn có
nhiều điểm sáng chói hơn là nhà cầm quyền Cộng sản hiện nay đã đẩy đất nước vào
sự lạc hậu và suy đồi về mọi lãnh vực. Thê thảm hơn nữa là chẳng những đảng
CSVN không mở mang thêm được một tấc đất nào cho đất nước mà còn lén lút dâng
hiến hàng loạt đất đai và biển đảo cho Tàu Cộng.
Thử nghĩ, có bao nhiêu đảng viên đảng Cộng sản biết đến
tên Thoại Ngọc Hầu và nếu như biết, thì liệu họ có thấy hổ thẹn đối với các bậc
tiền nhân hay không?
No comments:
Post a Comment