Đảng CSVN cố tình rơi vào bẫy nợ Trung cộng
vì muốn bán quyền lợi dân tộc nhưng mua được sự ủng hộ của ngoại bang hầu củng
cố sự toàn trị của đảng. Mời
quý thính giả đài ĐLSN nghe phần bình luận của Hiếu Chân với tựa đề: “Việt Nam nợ Trung Quốc bao
nhiêu tiền?” sẽ được Song Thập trình bày để kết
thúc chương trình phát thanh DLSN tối hôm nay.
Từ một nước nhận viện trợ, Trung Quốc đã vượt qua Hoa Kỳ trở thành nước cho vay và viện trợ lớn nhất thế giới. Việt Nam là một trong nhiều nước vay vốn của Trung Quốc, nhưng ít ai biết được quy mô của món nợ, mục đích vay vốn và cái giá chính trị phải trả cho món vay đó.
Dữ liệu về viện trợ và cho vay
của Trung Quốc được Bắc Kinh cho là “bí mật quốc gia” được giữ rất kỹ; ngay cả
những hợp đồng cho vay giữa Trung Quốc và các nước cũng có những điều khoản bảo
mật, khiến cho việc phân tích, đánh giá về hoạt động cho vay của Trung Quốc rất
khó khăn.
Mới đây, Trung Tâm AidData của
đại học College of William & Mary ở Virginia hợp tác với các nhà nghiên cứu
của đại học Harvard University và đại học Heidelberg University ở Đức đã lần
đầu tiên đưa ra một bức tranh toàn cảnh về hoạt động cho vay của Trung Quốc và
tác động của nó đến tình hình thế giới.
Nhưng theo dữ liệu công bố ngày
29 Tháng Chín vừa qua của Trung Tâm AidData, Việt Nam đã vay của Trung Quốc
$18.37 tỷ trong thời gian 2000-2017, trong số này có $16.35 tỷ là vay thương
mại và chỉ có $1.37 tỷ là vốn ODA. Việt Nam xếp thứ tám trong các nước vay
nhiều vốn Trung Quốc nhất. Khối nợ này cao hơn nhiều lần so với dữ liệu công bố
của chính quyền và chiếm khoảng 5.8% GDP của Việt Nam.
Ai là người vay nợ của Trung
Quốc? Về đại thể, chính phủ Việt Nam thường vay nợ để bù vào khoản thâm hụt
ngân sách do thường xuyên chi nhiều hơn thu; chính phủ cũng đứng ra “bảo lãnh”
để các tập đoàn, công ty quốc doanh của nhà nước vay tiền thực hiện các dự án
xây dựng hạ tầng hoặc nhà máy xí nghiệp theo các kế hoạch kinh tế mà chính phủ
Hà Nội đề ra. Tập đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN) thường được nói tới như là con
nợ lớn nhất và hầu hết các dự án xây dựng nhà máy điện của tập đoàn này đều sử
dụng vốn vay của Trung Quốc. Các tập đoàn Hóa Chất, Thép, Đường Sắt… và hàng
chục tập đoàn công ty khác cũng dựa vào nguồn vốn vay của Trung Quốc. Các “quả
đấm thép” – nói theo từ ngữ của cựu Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, hầu như đều làm
ăn thua lỗ, đốt tiền thuế của dân như đốt vàng mã nhưng vẫn được chính phủ ưu
ái vì cho rằng, đó là thành phần kinh tế “chủ đạo” của một quốc gia xã hội chủ
nghĩa.
Trung Quốc buộc các nước vay nợ
phải thế chấp (cầm cố) bằng tài nguyên khoáng sản, các cơ sở hạ tầng thiết yếu,
đất đai và tài khoản ngoại tệ quốc gia để khi không trả được vốn và lãi, Trung
Quốc sẽ chiếm các tài sản thế chấp đó để trừ nợ. Trường hợp của Lào phải giao cho
một công ty Trung Quốc quyền điều hành mạng lưới điện quốc gia sau khi vay tiền
Trung Quốc xây dựng tuyến đường sắt Yumo nối Lào với tỉnh Vân Nam Trung Quốc,
hay trường hợp của Sri Lanka phải giao cho Trung Quốc cảng Hambantota sau khi
vay tiền để mở rộng hải cảng này là những ví dụ về “bẫy nợ” của Trung Quốc.
Và như vừa nói trên, phần lớn
tiền Việt Nam vay của Trung Quốc là tín dụng thương mại, nước đi vay phải chịu
nhiều điều kiện ràng buộc rất bất lợi, chẳng hạn như phải sử dụng nhà thầu và
công nhân Trung Quốc, phải mua thiết bị và công nghệ Trung Quốc – gồm cả những
thiết bị và công nghệ mà Trung Quốc thải ra, như trường hợp các nhà máy nhiệt
điện đốt than đang được xây dựng ồ ạt ở các tỉnh ven biển Việt Nam. Việc cho
phép hàng chục ngàn người lao động Trung Quốc sang Việt Nam “thực hiện dự án,”
phần đông đều không quay về nước mà định cư lấy vợ sinh con ở Việt Nam đã và
đang đặt ra những nguy cơ tiềm ẩn về an ninh quốc gia và gây phẫn nộ trong dân
chúng địa phương.
Các nhà thầu Trung Quốc có nhiều
tai tiếng về làm chậm tiến độ, nâng giá dự án lên gấp đôi gấp ba, thiếu minh
bạch và phẩm chất công trình kém cỏi. Công trình đường sắt Cát Linh-Hà Đông ở
Hà Nội bị đội vốn từ $419 triệu lên $866 triệu và sau 13 năm vẫn chưa hoàn
thành đoạn đường chỉ dài 13 cây số là một ví dụ tiêu biểu cho các dự án vay vốn
Trung Quốc khiến dư luận hết sức bất bình.
Giáo Sư Zachary Abuza của đại học
National War College ở Washington, DC, nhận xét, Việt Nam hy vọng gắn bó mật
thiết hơn với Trung Quốc sẽ giúp hạn chế hành vi đe dọa, bắt nạt và xâm lấn của
Bắc Kinh. Có thể như vậy, nhưng có một lý do khác không kém phần quan trọng là
các món vay của Trung Quốc không có ràng buộc về cải cách quản trị, về dân chủ,
nhân quyền, về tính minh bạch chống tham nhũng như điều kiện vay vốn từ các
nước phương Tây. Nói cách khác, Trung Quốc rất biết lấy lòng các nhà lãnh đạo
độc tài. Ngoài ra, các doanh nhân Trung Quốc rất giỏi đút lót, đưa hối lộ cho
các quan chức cầm quyền để thực hiện ý đồ; còn các quan chức Việt Nam thì chẳng
quan tâm tới chất lượng dự án hay bẫy nợ mà chỉ cần tiền tham nhũng để vinh
thân phì gia trước khi hạ cánh an toàn.”
Trung tâm AidData cảnh báo nguồn vốn và cho vay của Trung Quốc đang lôi kéo các nước nghèo lảng tránh các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân Hàng Thế Giới (WB) hay Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), củng cố các chế độ độc tài, tham nhũng và xói mòn công cuộc dân chủ hóa. Ở Việt Nam, món nợ ngày càng lớn với Trung Quốc còn đặt ra nhiều rủi ro chính trị và tác động tới chính sách của Việt Nam trước những hành vi đe dọa, cưỡng bức và xâm lấn của nước láng giềng phương Bắc, nhất là trong vấn đề Biển Đông.
Sợi xích ràng buộc chủ nợ-con nợ cùng với sự tương đồng về thể chế chính trị độc tài đảng trị sẽ khiến Việt Nam khó mà thoát ra khỏi sự khống chế của Trung Quốc./.
No comments:
Post a Comment