Saturday, October 9, 2021

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc

Danh Nhân Nước Việt

Kính thưa quý thính giả, một nhân sĩ nổi tiếng dấn thân cho đạo pháp, là người có công việc trong hình thành, phát triển và kiện toàn hệ thống tôn giáo của đạo Cao Đài. Năm 1926, nhận phẩm vị Hộ Pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, người đã xả thân cho đạo và đời cho đến phút cuối.

Rồi đây ai đến cầm Chơn Pháp,
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.

Đó là 2 câu kết trong bài Thài của người, trở về giáng cơ khi quy Thiên được 3 ngày.

Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.

Đức Phạm Công Tắc sinh ngày 21/6/1890 (nhằm mùng 5 tháng 5, năm Canh Dần) tại làng Bình Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tân An (nay là Long An). Cha là ông Phạm Công Thiện, mẹ là bà La Thị Đường, quê quán cả hai ở làng An Hòa, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.  

Ông là tín đồ Công Giáo, được rửa tội tại nhà thờ ở Tây Ninh vào năm 1900, từng tu học tại Dòng Lasan.

Năm 1907, ông đậu bằng Thành Chung. Trong thời gian học trung học, ông tham gia vào phong trào Đông Du tại Sài Gòn do 2 ông Trần Chánh ChiếuDương Khắc Ninh lãnh đạo. Năm 1908, ông được Hội Minh Tân, một tổ chức của phong trào Đông Du, chuẩn bị đưa đi nước ngoài học hỏi, nhưng sau đó phải hủy bỏkế hoạch bị bại lộ.

Do bị nhà cầm quyền Pháp theo dõi, gây khó dễ nên ông phải bỏ học và làm việc cho một hãng buôn. Thời gian này, với bút hiệu Ái Dân, ông viết bài “cổ vũ tinh thần dân tộc” cho các tờ báo Công Luận và Chuông Rè của Nguyễn An Ninh, Tiếng Nói Tự Do và Lục Tỉnh Tân Văn của ông Pierre Jeantet và ông Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Khi ông Chiếu bị bắt, tờ báo đình bản, ông trở về Tân An.

Đầu thập niên 1920, phong trào Thông Linh học bắt đầu phổ biến tại Nam Kỳ. Vào khoảng tháng 7 năm 1925, ông cùng với các bạn công chức gốc Tây Ninh là Cao Quỳnh CưCao Hoài Sang cùng thử nghiệm lập bàn cơ và đến giữa tháng 12, được Thượng Đế xưng danh Cao Đài lần đầu tiên. Nhóm này phát triển thêm nhiều người, trong đó có ông Lê Văn Trung, cựu Nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ.

Ngày 21/2/1926, trong một buổi cầu cơ tại nhà ông Vương Quang Kỳ, một bài thơ được lưu truyền là cơ giáng của Thượng đế, trong đó có tên của 13 chức sắc, với ông Ngô Văn Chiêu được tôn là Anh Cả.

Trong một buổi hầu cơ ngày 17/4/1926, ông cùng với các ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư và bà Nguyễn Thị Hiếu, đã nhận cơ giáng chuẩn bị đạo phục Giáo Tông cho ông Ngô Văn Chiêu. Nhưng ông Chiêu từ chối và tuyển chọn một số tín đồ để tu theo Nội giáo Tâm truyền, thành lập hệ phái Cao Đài Chiếu Minh.

Hai vị Đầu sư Lê Văn Trung và Lê Văn Lịch bắt đầu đảm trách việc của Hội Thánh, phát triển thêm 6 đàn cầu cơ ở Nam Kỳ, nhận thêm tín đồ.

Ngày 29/9/1926, ông cùng 246 tín đồ lập tờ Tịch đạo (tức danh sách tín đồ), gửi cho Thống đốc Nam Kỳ Le Pol. Từ đó, các tín đồ chia làm 3 nhóm đi phổ độ khắp Nam Kỳ lục tỉnh.

Năm 1927, nhà cầm quyền chuyển ông đi Nam Vang. Tại đây, ông chiêu nạp thêm tín đồ và phong chức theo cơ bút, từ đó hình thành Cơ quan Truyền giáo Hải ngoại.

Do hoạt động tích cực của ông và Hội Thánh Ngoại Giáo có ảnh hưởng đến một số trí thức và quan chức Pháp, nên vào tháng 2 năm 1932, Quốc hội Pháp đồng ý cho đạo Cao Đài hoạt động trên toàn cõi Đông Dương.

Sau khi Quyền Giáo tông Thượng Trung Nhựt mất năm 1934, nhiều chức sắc cao cấp của Tòa Thánh ly khai và thành lập những hệ phái độc lập.

Nhằm ngăn chặn sự tan rã của Hội Thánh, các chức sắc còn lại đã tổ chức Hội Quyền Vạn Linh ngày 8/11/1935, cử ông vào chức vị Chưởng quản Nhị Hữu hình đài.

Trên thực tế, ông trở thành vị lãnh đạo tối cao, cầm quyền Chánh Trị Đạo của Tòa Thánh Tây Ninh cho đến ngày quy thiên.

Trước phong trào chống thực dân Pháp nổi lên khắp nơi từ năm 1941, nhà cầm quyền Pháp liền đàn áp, bắt giữ tất cả những người bị tình nghi. Và đã vào tận Toà Thánh Tây Ninh bắt ông và 5 chức sắc đày sang đảo Madagascar.

Năm 1946, nhằm chia cắt một lực lượng tôn giáo mạnh với Mặt trận Việt Minh, Pháp trả tự do cho ông, đổi lại các tín đồ Cao Đài sẽ không tấn công người Pháp. Với quan điểm chống chủ nghĩa vô thần của Việt Minh, ông đã chấp thuận điều kiện này và từ đó ông lo việc kiện toàn các thánh thất cho đến khi quy Thiên vào lúc 1giờ 30 chiều ngày 17/5/1959, tại Chùa Tual Svay Prey ở Nam Vang.

*****

Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc đã hiến dâng cuộc đời cho đạo Cao Đài suốt 31 năm, kể từ lúc sơ khởi nền Đạo năm 1925 cho đến năm 1956. Ông được xem là một trong những môn đệ đầu tiên của Đức Cao Đài, là người trẻ tuổi được phẩm vị cao quý nhất của Hiệp Thiên Đài, năm 37 tuổi đắc phong chức Hộ Pháp và kể từ năm đó, ông xả thân hành đạo cho đến khi sức tàn lực kiệt trở về thiêng liêng vị.

Với công lao đóng góp của ông cho đạo Cao Đài, Hiền tài Trần Văn Rạng, Thạc sĩ Sử học, trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn đã tóm lược cuộc đời ông trong quyển “Chân dung Hộ pháp Phạm Công Tắc” bằng câu:

"Tâm vô quái ngại, đại hùng, đại lực, đại từ-bi".

No comments:

Post a Comment