Saturday, October 23, 2021

Sĩ phu Cao Bá Quát

Danh Nhân Nước Việt

 Kính thưa quý thính giả, Ở nửa đầu thế kỷ 19, có một nhà thơ được xem là thiên tài nổi danh về văn chương thi phú, vừa là quân sư trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một trong những cuộc nổi dậy có tiếng, tuy ngắn ngủi nhưng có tầm ảnh hưởng sâu rộng về sau. Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Sĩ phu Cao Bá Quát” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.

“Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán,

Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường.”

Đó là 2 câu thơ của vua Tự Đức ngợi khen Cao Bá Quát và Phó bảng Nguyễn Văn Siêu.

Được Hồng Liên Lê Xuân Giáo dịch là:

Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thời Tiền Hán phải thua,

Thơ như Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương thời Thịnh Đường còn kém.

Cao Bá Quát tự là Chu Thần, sinh năm 1809 tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

Khoảng giữa thế kỷ 19, nền kinh tế Việt Nam suy thoái trầm trọng vì nạn chiếm đoạt đất đai và tham nhũng của nhiều quan lại, chế độ thu thuế và lao dịch khắc nghiệt, thiên tai bão lụt, hạn hán, ôn dịch và vỡ đê xảy ra liên miên đã đẩy người dân vào cảnh tận cùng đau khổ, tứ tán phân ly.

Chỉ tính riêng khoảng thời gian từ 1847 đến 1862 đã có hơn 40 cuộc nổi dậy chống triều đình, trong đó cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát từ năm 1854 đến năm 1856 ở Hà Tây là tiêu biểu nhất.

Vào năm 1850, do không được lòng một số quan lớn trong triều, Cao Bá Quát rời kinh đô Huế đi làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây). Cụ về quê sống với tầng lớp dân nghèo, để chiêm nghiệm về chính sách hà khắc của triều đình và suy tính cách khởi nghĩa. Không lâu sau, lấy cớ về nuôi mẹ già, Cụ từ chức.

Tháng 7 năm 1854 tại Bắc Kỳ xảy ra nạn dịch châu chấu, mùa màng bị phá sạch, nạn đói hoành hành. Nhân thời cơ này, dựa vào lòng dân còn tưởng nhớ nhà Lê, Cụ suy tôn một người thuộc dòng dõi nhà Lê tên Lê Duy Cự làm Quân chủ, còn Cụ làm Quốc sư, tập hợp các tầng lớp sĩ phu và các hào mục chuẩn bị cuộc tổng nổi dậy chống triều đình.

Để nêu rõ ý nghĩa cuộc khởi nghĩa, Cụ cho thêu 2 dòng chữ lớn trên đại kỳ:

Bình Dương, Đồ Bản vô Nghiêu Thuấn,

Mục Dã, Minh Điều hữu Võ Thang.

Tạm dịch:

Ở Bình Dương và Đồ Bản không có vua tốt như Nghiêu, Thuấn.

Nhưng Mục Dã, Minh Điều có người như Võ Vương, Thành Thang nổi dậy.

Cụ tập hợp được một lực lượng đông đảo, nhiều nhất là nông dân ở miền Trung du và lực lượng này còn được giới trí thức, giới võ quan cùng các lang đạo người Mường tham gia.

Công cuộc khởi nghĩa còn trong giai đoạn chuẩn bị thì bị phát hiện. Vua Tự Đức ra lệnh cho 3 Tổng đốc Hà Ninh, Hưng Tuyên Bắc Ninh đưa quân trấn áp.

Trước cục diện này, Cụ đang ở Bắc Ninh vội trở về Sơn Tây họp bàn ngày tổng nổi dậy. Do lực lượng ở các tỉnh chưa được chuẩn bị chu đáo, nên khi lệnh khởi nghĩa ban hành thì chỉ có nghĩa quân ở Mỹ Lương do C và Đinh Công Mỹ chỉ huy là kịp điều quân nổi dậy.

Trận mở đầu xảy ra vào tháng 11 âm lịch năm 1854 tại Ứng Hòa. Sau khi đánh chiếm được phủ thành này, C tiến lên hướng Bắc đánh chiếm luôn huyện Thanh Oai, Hà Nội.

Tháng 12 năm 1854, cánh trung quân do Đô thống Nguyễn Văn Tuân chỉ huy từ Thanh Oai tiến đến Hà Nội bị quân của triều đình đón đánh ở khu vực xã Đồng Dương và Thạch Bích. Cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt, quân của hai bên bị thương vong rất nhiều. Vì yếu kém hơn về quân số và vũ khí, nên nghĩa quân thất trận, các thủ lãnh: Nguyễn Văn Tuân, Nguyễn Đình Huấn, Hoàng Đình Nho, Lê Văn Trường... đều bị bắt.

Sau khi rút quân khỏi Ứng Hòa và Thanh Oai, Cụ tiến đánh huyện Yên Sơn và vây phủ thành Quốc Oai. Đốt phá phủ thành xong, Cụ đưa quân đón đánh cánh quân triều đình do Tổng đốc Nguyễn Bá Nghi chỉ huy. Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt tại làng Sài Sơn và cũng vì không cân bằng lực lượng, nên nghĩa quân phải rút về huyện Phúc Thọ thuộc phủ Quảng Oai.

Bị truy đuổi, Cụ cho quân vượt sông Hồng sang phủ Vĩnh Tường và do cánh quân chủ lực suy yếu, nên Cụ phải quay về Mỹ Lương nhập với đoàn quân của Bạch Công Trân để chấn chỉnh đội ngũ, tuyển mộ thêm nghĩa quân miền núi.

Đầu năm 1855, Cụ đem quân tấn công huyện Yên Sơn lần thứ hai. Phó lãnh binh Sơn Tây là Lê Thuận Đại đem quân nghinh chiến. Cuộc chiến đến hồi quyết liệt tại vùng núi Yên Sơn thì C bị tử trận, nên đoàn nghĩa quân tan rã.

Cụ để lại 2 tập thơ chữ Hán là Chu Thần thi tập và Cúc Đường thi thảo với hơn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi. Về chữ Nôm, Cụ có bài phú nổi tiếng Tài Tử đa cùng. Ngoài ra, Cụ còn có một số bài thơ Đường luật và Ca trù.

*****

Cụ Cao Bá Quát là người có nhân cách, là người đầu tiên dám phê phán bằng lời nói và hành động về lối học từ chương khoa cử của nền giáo dục phong kiến. Cụ kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy nghĩ, giữa tình cảm và lý trí nên thơ của Cụ sâu sắc và đậm đà. Cụ lại là người có nhiệt huyết, can đảm đứng lên chống triều đình để đưa đất nước ra khỏi cơn quốc nạn.

Mặc dù thất bại, nhưng tên tuổi của Cụ và các nghĩa quân vẫn có vị trí sáng ngời trong tâm hồn người Việt. Tinh thần bất khuất của Cụ chính là tấm gương sáng cho thế hệ con cháu noi theo trong tình thế “Tổ Quốc lâm nguy” hiện nay.

 

No comments:

Post a Comment