Thứ Bảy, 26.12.2015
Kính thưa quý thính giả,
Một người được xem là một nhà thơ, một sĩ phu yêu nước và là một nhà khoa bảng, ông từ bỏ quan trường, cổ vũ tinh thần yêu nước, kêu gọi nghĩa sĩ đứng lên chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập cho đất nước. Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa" của Việt Thái qua sự trình bày của Bảo Trân để chấm dứt chương trình tối hôm nay.
Đồng Nai có bốn rồng vàng,
Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi.
Đó là hai câu ca dao truyền khẩu ở miền Nam, ca ngợi 4 nhân vật nổi tiếng, trong đó Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa.
Bùi Hữu Nghĩa còn có tên Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghi Chi, sinh năm
Đinh Mão (1807) tại Bình Thủy, Cần Thơ. Thân phụ là Bùi Hữu Vi xuất thân
từ nghề chài lưới, tuy nhà nghèo nhưng thấy con thông minh và ham học,
ông đưa Bùi Hữu Nghĩa lên Biên Hòa, gửi nhờ nhà ông Nguyễn Văn Lý để
theo học với ông đồ Hoành.
Sau những năm đèn sách miệt mài, Bùi Hữu Nghĩa vượt hẳn các bạn đồng
học, được thầy khen bạn mến. Năm 1835, ông đỗ Thủ khoa kỳ thi hương ở
Gia Định. Ít lâu sau, ông kết duyên với bà Nguyễn Thị Tồn, con gái của
ông Nguyễn Văn Lý, người đã đùm bọc ông suốt thời gian học tập.
Ông được bổ làm tri huyện ở Phước Long (Biên Hòa), sau đó làm tri huyện Trà Vang (tức huyện Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long ngày nay).
Với tấm lòng thương dân yêu nước, căm ghét bọn quan lại tham nhũng,
thối nát và bọn giàu có cậy quyền thế, ức hiếp dân lành, Bùi Hữu Nghĩa
đã không ngần ngại đứng về phía kẻ yếu, bênh vực giới nông dân nghèo nên
thường va chạm với người Hoa kiều và bị vu oan tội xúi giục giết người
nên bị bắt giải về Gia Định với án tử hình chờ triều đình phê chuẩn.
Trước nỗi oan ức của chồng, năm 1849, bà Nguyễn Thị Tồn đã lặn lội ra
tận kinh đô Huế kêu oan cho chồng. Trước Tam pháp ty, bà khua ba hồi
trống "kích cổ đăng vân", thúc giục vua lâm triều, để dâng tờ sớ minh
oan cho chồng. Hành động can trường, đáng kính phục của bà đã khiến cho
vua Tự Đức tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa nhưng phải tham gia quân
đội, lập công chuộc tội. Lúc bấy giờ, nghe tin có người đàn bà ở đất
Đồng Nai lặn lội ra kinh đô Huế minh oan cho chồng, bà Từ Dũ (mẹ vua Tự
Đức) cho vời đến gặp. Bà Nguyễn Thị Tồn vào yết kiến và tâu qua mọi
việc. Thái hậu Từ Dũ cảm động và tặng một tấm biển đề bốn chữ vàng "Liệt
phụ khả gia".
Sau đó, Bùi Hữu Nghĩa bị đưa đi trấn đồn Vĩnh Thông, Châu Đốc, giáp
với nước Miên. Tình hình nơi này thường xuyên không ổn định, bởi các
cuộc nổi dậy chống triều đình. Trong một cuộc chạm trán, đồn Vĩnh Thông
thất thủ, quan quân trong đồn bị giết và bị bắt, trong đó có Bùi Hữu
Nghĩa. Nhưng do biết tiếng Bùi Hữu Nghĩa là người có tấm lòng nhân từ,
quan tâm đến số phận của người nghèo khổ, trong đó có cả người Miên, nên
vua Cao Miên cho thuyền đưa ông về Tịnh Biên.
Trong khoảng thời gian về quê nhà dạy học và làm thơ, Bùi Hữu Nghĩa
chứng kiến cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Ngày 18-2-1859, giặc
Pháp chiếm Sài Gòn. Sự kiện này là nỗi đau thống thiết chung của toàn
dân, nhưng đau nhất là đến từ những sĩ phu yêu nước như Bùi Hữu Nghĩa,
Huỳnh Mẫn Đạt, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị ...
Triều đình nhà Nguyễn khi đó nhu nhược, cắt Nam Kỳ lục tỉnh cho Pháp.
Trong những ngày đau thương của dân tộc, Bùi Hữu Nghĩa đã gần 60 tuổi,
không thể trực tiếp tham gia nghĩa quân đánh giặc, nhưng bằng lời thơ
thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, ông đã cổ vũ cho phong trào yêu
nước chống Pháp.
Năm 1868, thực dân Pháp biết ông tham gia phong trào Văn Thân nên bắt
giam ông ở Vĩnh Long, sau đó đưa về Gia Định. Trong thời gian bị giam,
ông đã tỏ rõ khí tiết bất khuất, không để giặc mua chuộc, nên sau cùng
Pháp phải thả ông về Long Tuyền.
Sau một cơn bệnh nặng, Bùi Hữu Nghĩa từ trần tại Bình Thủy, Cần Thơ,
vào ngày 21 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1872), hưởng thọ 66 tuổi.
Cuộc đời của Bùi Hữu Nghĩa là cuộc đời của một nhà yêu nước nhiệt
thành, một nhà tư tưởng có nhiều quan điểm tiến bộ, một vị quan cương
trực, thanh liêm, bất khuất trước cường quyền. Ông một nhà thơ nổi
tiếng, xứng đáng với danh hiệu "Rồng vàng" trên văn đàn Đồng Nai mà dân
chúng thường truyền tụng. Ông còn một người chồng, người cha trọn nghĩa
vẹn tình, một người thầy mẫu mực xứng đáng cho học sinh các thế hệ noi
theo.
* * *
Sinh thời của mình, Thủ khoa Nghĩa không có những công trận hiển hách
như các võ tướng triều Nguyễn. Thế nhưng đối với người dân miền Nam,
đặc biệt là vùng Sài Gòn - Gia Định, ông là một vị quan trong sạch và
yêu nước thương dân cho đến giờ phút cuối đời mình.
Rất tiếc là hiện nay đất nước Việt Nam nói chung, và miền Nam nói
riêng, không có được một vị quan nào tốt như Thủ khoa Nghĩa. Tệ hơn thế
nữa là giới quan lại cộng sản hôm nay đang cấu kết với các thương nhân
Tàu Cộng để bóc lột giới nông dân một cách tàn bạo gấp trăm lần thời Thủ
khoa Nghĩa.
Việt Nam bị rơi vào vòng Pháp thuộc hơn 80 năm là một bất hạnh lớn
của đất nước. Thế nhưng, sau hàng triệu cái chết trong 30 năm chiến
tranh Quốc - Cộng và 40 năm thống trị của tập đoàn cộng sản, cái bất
hạnh nhất của dân tộc là hiện không có bao nhiêu kẻ sĩ có tấm lòng yêu
nước thương dân như thế hệ Thủ khoa Nghĩa!
Một dân tộc mà ngay cả giới sĩ phu cũng "rụt rè" thì không thể than
trách là tại sao đất nước bị suy thoái và lạc hậu như hôm nay!
Việt Thái
No comments:
Post a Comment