Thứ Sáu, 11.12.2015
Trong những ngày vừa qua, nhiều tổ chức cũng như cá nhân, ở quốc nội cũng như hải ngoại, tham dự tích cực vào các hoạt động cổ võ nhân quyền tại Việt Nam. Kính mời quí thính giả theo dõi quan điểm của LLCQ về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, và phương cách để cải thiện tình trạng này, qua lời trình bày của Hải Nguyên.
Thưa quí thính giả,
Ngày 10 tháng 12 năm 2015 kỷ niệm 67 năm bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền ra đời, đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử văn minh nhân
loại, một nhân thức mới về vị trí con người trên địa cầu, một vị trí
then chốt và cao trọng nhất giữa các sinh vật sống trên mặt đất này.
Nhưng quan trọng hơn cả là Bản Tuyên Ngôn đã xác định tính bình đẳng của
con người, không phân biệt màu da, chủng tộc, phái tính, tuổi tác, biên
giới, tôn giáo, cũng như thể chế chính trị.
Thật ra những khái niệm về quyền bình đẳng giữa con người trong xã
hội đã có từ rất xa xưa, và đã xuất hiện trong nền văn minh nhân loại từ
đông sang tây, nó bàng bạc trong luật lệ thành văn hay bất thành văn
của những nhóm sắc tộc, của các quốc gia, và các đế quốc mạnh cũng như
yếu. Tuy nhiên chính nhờ bản Tuyên Ngốn Quốc Tế Nhân Quyền mà các quyền
này được tập trung, hệ thống hóa và nhất là được đề cao thành những giá
trị phổ cập.
Ngoài phần dẫn nhập, Bản Tuyên Ngôn gồm 36 khoản đã được soạn thảo
trong vòng 2 năm, và được chấp thuận ngày 10 tháng 12 năm 1948, bằng
nghị quyết 217, được 51 quốc gia hiện diện chấp thuận tại Paris. Đây là
nền tảng của một hiệp định về các quyền con người – đến nay đã được thừa
nhận hoàn toàn hay một phần của 192 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc,
trong ấy có Việt Nam. Ta có thể xem đây như là một bản "Hiến Pháp Quốc
Tế", nhằm vạch ra các nguyên tắc của cuộc sống chung dựa trên hòa bình,
công lý và sự tôn trọng các quyền tự do và sự sống con người
Đến nay các định ước đã trở thành luật, bộ Luật Quốc Tế Nhân Quyền,
bao gồm những điều khoản nhân quyền trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc năm
1945, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948, và Phụ Đính Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền năm 1998, Công Ước Quốc Tế về những Quyền Dân Sự và
Chính Trị năm 1966, và Công Ước Quốc Tế về những Quyền Kinh Tế Xã Hội và
Văn Hóa cùng trong năm 1966. Ngoài ra còn có khoảng 50 công ước bổ túc
và khai triển cho phù hợp với nhữn thay đổi của thế giới nữa.
Tuy đó là một bộ luật, nhưng từ văn bản đến thi hành là một vấn đề
hết sức khác xa. Vì không có tính cưỡng hành và chế tài một cách quyết
liệt như luật lệ trong một quốc gia pháp trị, nên rất khó đem đến hiệu
quả như mong đợi; đặc biệt ở những quốc gia độc tài, độc đảng, trong đó
tập đoàn thống trị có muôn vàn lý do để miễn thi hành hay vi phạm có chủ
mưu, mà không thể trừng phạt được.
Riêng tại Việt Nam, nhất là ở Miền Nam Việt Nam cách nay trên nửa thế
kỷ, dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, học sinh trung học đã được
học và hiểu về Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Nhưng ngày nay vấn đề
nhân quyền hầu như còn khá xa lạ đối với đại chúng. Lý do là vì nhà cầm
quyền CSVN không muốn cho người dân biết đến tài liệu này, vì biết rằng
khi người dân ý thức được đâu là những quyền tự nhiên mình được hưởng,
mà không do đảng ban phát, như đã bị tuyên truyền, nhồi sọ từ lúc mới ra
đời, thì sự bất bình dẫn đến phản kháng sẽ gia tăng, và nguy cơ sụp đổ
chế độ là điều khó tránh. Đó là lý do tại sao Đảng không những cấm đoán,
ngăn chận không cho những thông tin về nhân quyền được phổ biến rộng
rãi tại VN, mà còn thẳng tay hành hạ, bỏ tù những người thực thi các
quyền căn bản này.
Một mặt, CSVN, chẳng những đã là hội viên Liên Hiệp Quốc, đã phê
chuẩn các công ước về nhân quyền, đã là thành viên của Hội Đồng Nhân
Quyền Liên Hiệp Quốc, nhưng họ lại nhất quyết ngăn chận mọi hoạt động
nhân quyền của người dân. Chẳng những thế họ còn biện minh rằng nhân
quyền giữa người Việt Nam khác với người tây phương, vì vấn đề đặc thù
văn hóa, vấn đế dân trí, vấn đề an ninh quốc gia vân vân.... Rõ ràng là
những luận điểm ấy hoàn toàn là ngụy biện, là dối trá, là lừa bịp dư
luận thế giới, chỉ vì CSVN muốn độc quyền cai trị đất nước để bảo vệ đặc
quyền đặc lợi của đảng và phe nhóm lợi ích mà thôi.
Nhờ vào kỹ thuật thông tin mới, và hơn 4 triệu Người Việt sống tại
hải ngoại. cộng với hàng triệu người Việt có điều kiện ra nước ngoài,
nhất là lớp trí thức tiếp cận được các thông tin đa nhiều, vấn đề nhân
quyền càng ngày càng được biết đến ở Việt Nam; vì vậy trong những năm
qua người dân chẳng những đã biết đến nhân quyền, mà còn có những phản
ứng quyết liệt để bảo vệ những gì mình đang có; nhất là những quyền rất
căn bản như quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ
chính kiến, quyền biểu tình, quyền lập hội....
Trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế, nhân quyền vừa là một vũ
khí để răn đe, vừa là một món hàng để mặc cả trao đổi các quyền lợi kinh
tế, chính trị. Nhưng dù được sử dụng cách nào đi nữa, vấn đề căn bản
vẫn phải là tôn trọng phẩm giá con người; nên bất cứ hình thức nào làm
tổn thương nhân phẩm như ngăn cấm, hành hung, thóa mạ, kỳ thị, làm nhục,
bỏ đói, giam cầm trái phép... đều là vi phạm và bị lên án.
Theo sự đánh giá của các cớ quan nhân quyền quốc tế, cũng như những
tổ chức theo dõi nhân quyền độc lập, thì Việt Nam vẫn là một quốc gia vi
phạm nhân quyền có hệ thống một cách nhiêm trọng. Dù biết vậy, nhưng
người Việt Nam không thể trông cậy vào bất cứ thế lực nào có thể thay
chúng ta để cải thiện nhân quyền ở Việt Nam được. Đây là việc của chính
chúng ta; và chỉ có một con đường để cải thiện nhân quyền là thay đổi
thể chế độc tài bằng một thể chế tự do dân chủ thật sự mà thôi.
Cám ơn quí thính giả đã theo dõi bài quan điểm của chúng tôi.
LLCQ
No comments:
Post a Comment