Gia tài văn hoá của dân tộc đang dần bị xâm hại bởi sự cẩu thả, tùy tiện và xem thường chữ nghĩa. Từ công sở, báo chí cho đến học đường và đời sống thường ngày, tiếng Việt đang bị uốn nắn méo mó theo những kiểu rất lạ lùng.
Mời quý thính giả theo dõi tiếp bài viết của Hạ Hồng Kỳ, thành viên ban biên tập đài ĐLSN với tựa đề: “Sự Sa Sút Đáng Báo Động Trong Cách Viết Và Đọc Tiếng Việt Hiện Nay” qua sự trình bày của Lê Khanh để tiếp nối chương trình tối nay.
Hạ Hồng Kỳ
Trong suốt chiều dài lịch sử, tiếng Việt luôn là một trong những giá trị quan trọng nhất của dân tộc. Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp, mà còn là nơi ký thác tư tưởng, văn hóa, tâm hồn và trí tuệ của một cộng đồng. Thế nhưng, chưa bao giờ tiếng Việt lại bị đối xử thô bạo, bị lạm dụng, bị xuyên tạc và bị sử dụng một cách cẩu thả như trong xã hội Việt Nam hôm nay. Từ văn bản hành chính, khẩu hiệu tuyên truyền, báo chí nhà nước cho đến giao tiếp hằng ngày của người dân, người ta có thể dễ dàng bắt gặp vô số lỗi diễn đạt, sai chính tả, sai cú pháp, thậm chí sai đến mức biến dạng hoàn toàn cấu trúc ngôn ngữ.
Một văn bản được cho là viết năm 1949 của Hồ Chí Minh – là ví dụ điển hình cho khả năng “sáng tạo” đầy tai hại trong cách viết tiếng Việt để các thế hệ sống và học tập theo “gương Bác Hồ vĩ đại”. Văn bản không chỉ sai chính tả, mà còn sai cú pháp, sai ngữ nghĩa, thậm chí không thể hiện nổi sự tối thiểu của tư duy viết. Cách dùng từ lủng củng, câu cú rối ren, có đoạn không thể hiểu được nếu không “đoán ý”. Chẳng hạn các câu chữ: (xin trích) “Tôi được báo cáo rằng Hồng Sinh một mình đã ziệt được 16 tên zặc”, hay câu chữ: “Đồng thời tôi mong nam nữ zu kích Cao Bằng đều cố gắng thi đua, theo cho kịp Hồng Sinh, ziệt cho nhiều zặc, cướp cho nhiều súng” ..v ..v .. Ấy vậy mà nó được đóng dấu, được lưu hành, được xem như văn bản chính thứccủa ông Hồ. Điều đó cho thấy sự xem thường chữ viết – và mở rộng ra là xem thường tư duy – đã tồn tại từ rất sớm trong bộ máy cai trị.
Hơn bảy mươi năm sau, tình trạng ấy không những không được cải thiện mà còn trở nên trầm trọng hơn. Chỉ cần mở báo chí nhà nước, ta sẽ thấy nhan nhản những câu văn vụng về, ngô nghê, sai ngữ pháp nhưng vẫn được đăng công khai. Không ít phóng viên, biên tập viên – những người có nhiệm vụ bảo vệ tiếng Việt – lại là những kẻ phá tiếng Việt một cách trắng trợn nhất. Những nhóm chữ như “van xả cảm ứng tự động”, “đề xuất xử lý nghiêm để răn đe”, “triển khai quyết liệt”, “quán triệt sâu sắc”, “định hướng tiên quyết”… xuất hiện dày đặc đến mức người dân không còn cảm nhận được tính ngô nghê của chúng.
Nhưng nghiêm trọng hơn, trong giao tiếp hằng ngày, lớp trẻ đang bị đánh cắp khả năng sử dụng tiếng Việt một cách tự nhiên và trong sáng. Hệ thống giáo dục – vốn nặng tuyên truyền hơn tri thức – không dạy học sinh nghĩ bằng tiếng Việt, không dạy các em diễn đạt sao cho rõ ràng, mạch lạc, mà chỉ nhồi nhét những khuôn mẫu cứng nhắc, những khẩu hiệu vô hồn. Học sinh thuộc lòng bài văn mẫu, nói năng thì lập bập, viết câu đơn giản cũng sai, dùng từ vô tội vạ, thậm chí không phân biệt được nghĩa của chính những chữ mà mình đang dùng. Tư duy lệ thuộc kéo theo ngôn ngữ méo mó.Không ít người lớn cũng chạy theo trào lưu này như một cách “trẻ hóa”, càng góp phần làm suy đồi tiếng Việt. Ngôn ngữ bị giản lược đến mức nghèo nàn, lười biếng; suy nghĩ theo đó cũng trở nên đơn giản và lộn xộn.
Trong khi đó, những người có trách nhiệm bảo vệ sự chuẩn mực của tiếng Việt – từ các nhà quản lý giáo dục, viện ngôn ngữ học cho đến cơ quan báo chí – lại im lặng hoặc thậm chí cổ vũ cho sự xuống cấp này. Viện Ngôn ngữ học hiếm khi lên tiếng về sai sót trong sử dụng ngôn ngữ của báo chí. Bộ Giáo dục thì thiên về cải cách hình thức, như thay sách liên tục, thêm nhiều môn vô bổ, nhưng không dạy học sinh cách viết một câu cho đúng, một đoạn văn cho gãy gọn. Nhà xuất bản giáo khoa in sách sai chính tả hàng trăm lỗi nhưng vẫn phát hành, vẫn thu tiền, vẫn xem như chuyện bình thường. Sự xem nhẹ chữ nghĩa bắt đầu từ nhà nước và lan dần xuống xã hội.
Nhiều người biện minh rằng ngôn ngữ là thứ sống, thay đổi tự nhiên theo thời gian. Điều đó đúng, nhưng chỉ đúng khi sự thay đổi xuất phát từ nhu cầu biểu đạt của cộng đồng, chứ không phải từ sự cẩu thả và suy thoái trong tư duy. Tiếng Việt thay đổi theo hướng sáng tạo, phong phú – đó là tiến hóa. Nhưng tiếng Việt biến dạng, nghèo nàn, ngô nghê – đó là thoái hóa. Rất tiếc, điều đang diễn ra tại Việt Nam hiện nay là sự thoái hóa.
Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào sự thật ấy. Nếu không bắt đầu bằng việc khôi phục lại sự chuẩn mực, sự trong sáng và lòng tôn trọng đối với tiếng Việt, thì những nỗ lực cải cách kinh tế, giáo dục hay xã hội đều chỉ là vá víu. Một dân tộc muốn thoát khỏi lạc hậu trước hết phải biết nói cho đúng, viết cho đúng và nghĩ cho đúng.
Tiếng Việt là linh hồn dân tộc. Đừng để linh hồn ấy bị bóp méo bởi sự cẩu thả, sự giả dối và sự nghèo nàn của tư duy. Chúng ta chỉ có thể trưởng thành khi biết tôn trọng ngôn ngữ của chính mình. Nếu không, mọi lời tuyên bố về “văn minh”, “hiện đại”, “đổi mới” đều chỉ là những khẩu hiệu rỗng – giống hệt như những câu chữ sai be bét nhưng lại được đóng dấu đỏ trong văn bảncủaông Hồkýnăm 1949 về việc dạy chữ quốc ngữcủa trường Dục Thanh(Giáo Dục Thanh Niên) ở Phan Thiết cho người ngoại quốc.
No comments:
Post a Comment