Tuesday, December 16, 2025

Những Bất Công Trong Giới Lao Động Việt Nam So Với Luật Lao Động Quốc Tế

Đất Nước Đứng Lên

Thưa quý thính giả, đảng cộng sản Việt Nam tự nhận là đại biểu trung thành của giới công nhân. Nhưng trên thực tế, giời công nhân Việt Nam đang là đối tượng bị đảng lợi dụng và trù dập từ bấy lâu nay. Trong tiết mục DNDL hôm nay, mời quý thính giả theo dõi bài viết của Trần Nam Trung, thành viên ban biên tập đài DNDL, với tựa đề “Những Bất Công Trong Giới Lao Động Việt Nam So Với Luật Lao Động Quốc Tế”, sẽ do Bảo Trân trình bày sau đây.

Trần Nam Trung

Trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam hay rêu rao rằng đã đạt được nhiều thành quả về sản xuất và tạo thêm nhiều công ăn việc làm. Tuy nhiên, đằng sau những con số tưởng chừng khả quan ấy là vô vàn bất công đối với giới lao động, nhất là khi đem so sánh với các chuẩn mực quốc tế do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đề ra.

Trước hết, vấn đề lương bổng và giờ giấc làm việc là một trong những điều bất công rõ rệt. Dù mức lương tối thiểu đã được điều chỉnh nhiều lần, thực tế vẫn chưa đủ để bảo đảm đời sống căn bản cho giới công nhân. Nhiều công nhân trong các ngành sản xuất phải làm việc với đồng lương thấp, trong khi giờ giấc lao động kéo dài, tăng giờ làm việc lên đến hai, ba trăm giờ mỗi năm. Điều này vượt xa giới hạn mà các công ước quốc tế cho phép, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và sinh hoạt của công nhân.

Kế đến, quyền tự do lập hội và thương lượng tập thể vẫn bị hạn chế. Việt Nam chưa cho phép thành lập công đoàn độc lập; mọi tổ chức đại diện giới công nhân đều phải trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, dưới sự kiểm soát tuyệt đối của đảng cộng sản. Trong khi đó, Công ước ILO số 87 và 98 xác nhận quyền này là thiết yếu để bảo vệ quyền lợi của người thợ. Sự thiếu vắng cơ chế thương lượng thực chất khiến giới lao động yếu thế trong việc đòi hỏi quyền lợi chính đáng.

Ngoài ra, bảo hộ pháp lý và chế độ an sinh vẫn chưa được bảo đảm đầy đủ. Dù Việt Nam đã phê chuẩn nhiều công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế, việc thi hành còn yếu kém. Lao động ngoài khu vực chính thức – nơi chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động – gần như không được hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các quyền lợi căn bản khác. Điều kiện làm việc trong nhiều công xưởng và nhà máy vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tai nạn, nhưng công tác thanh tra và xử phạt những vi phạm của giới chủ nhân chưa đủ mạnh để tạo sức răn đe.

So với các quốc gia tiên tiến thì sự chênh lệch này càng rõ rệt. Ở nhiều nước, giới công nhân phải được hưởng mức lương đủ cao để bảo đảm họ có được đời sống căn bản, giờ giấc làm việc hợp lý, và quyền tự do lập hội được tôn trọng. Trong khi đó, tại Việt Nam, những quyền lợi này vẫn bị hạn chế, khiến giới lao động chịu nhiều thiệt thòi.

Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò chủ đạo trong việc hoạch định và kiểm soát chính sách lao động. Mọi quy định về công đoàn, quyền lợi người thợ đều chịu sự chi phối của cơ chế một đảng. Điều này khiến công đoàn không thực sự độc lập, mà chủ yếu làm nhiệm vụ bảo vệ nhóm chủ nhân hơn là bảo vệ quyền lợi công nhân. Sự can thiệp này làm cho tiến trình cải cách theo chuẩn quốc tế diễn ra chậm chạp, bởi quyền tự do lập hội và thương lượng tập thể bị xem là vấn đề nhạy cảm về chính trị. Nếu Việt Nam muốn hội nhập sâu rộng và bảo đảm công bằng cho giới lao động, cần có sự thay đổi mạnh mẽ trong chính trị – giảm sự kiểm soát của đảng, tăng tính tự chủ cho các tổ chức độc lập đại diện người thợ.

Một nền kinh tế muốn phát triển lâu dài không thể chỉ dựa vào nhân công rẻ, mà phải đặt nền tảng trên sự tôn trọng và bảo vệ quyền lợi con người. Phải tách rời đảng cộng sản cầm quyền ra khỏi những sinh hoạt dân sự. Đó mới là con đường để Việt Nam hội nhập thành công và tiến tới một xã hội công bằng, văn minh.

 

No comments:

Post a Comment