Tuesday, December 16, 2025

Công Ước Hà Nội – Liên Hiệp Quốc Đã ‘Giao Trứng Cho Ác

Chuyện Nước Non Mình

Sự kiện Hà Nội được Liên Hiệp Quốc chọn để tổ chức lễ ký kết Công ước “chống tội phạm mạng” đã gây xôn xao trong dư luận dân chúng.

Trong chuyên mục CNNM hôm nay, kính mời quý thính giả theo dõi bài viết của Đỗ Hoàng Lan, thành viên Ban Biên Tập đài ĐLSN, tựa đề “Công Ước Hà Nội – Liên Hiệp Quốc Đã ‘Giao Trứng Cho Ác’”, sẽ do Lê Khanh trình bày sau đây...

Trong hai ngày 25 và 26 tháng 10 năm 2025, Hà Nội trở thành tâm điểm chú ý của cộng đồng quốc tế khi được Liên Hiệp Quốc chọn làm địa điểm để tổ chức lễký kết “Công ước của Liên hiệp quốc về chống tội phạm mạng” — một văn kiện được giới truyền thông quốc tế đặt tên là “Công Ước Hà Nội”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử một công ước mang tầm mức toàn cầu về an ninh mạng được Liên Hiệp Quốc tổ chức lễ ký kết tại thủ đô một nước hội viên thay vì tại trụ sở chính ở New York. Công ước có chủ đề “Chống tội phạm mạng — Chia sẻ trách nhiệm — Hướng tới tương lai” đã có được 72 quốc gia ký ngay trong hai ngày hội họp tại Hà Nội và hơn 10 nước khác cho biết sẽ phê chuẩn trong thời gian tới.

Nhìn bề ngoài, diễn biến này được các quan chức CSVN ca ngợi như một thành tựu ngoại giao hiếm có, một dấu ấn “hội nhập sâu rộng” của Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Nhưng nếu gạt bỏ lớp ngôn từ bóng bẩy và nhìn thẳng vào bản chất, người ta không thể không thấy một nghịch lý nghiêm trọng, có thể ảnh hưởng tai hại cho tương lai của tự do trên không gian mạng toàn cầu. Chọn Hà Nội, thủ đô của một quốc gia theo thể chế độc tài đảng trị, để ký kết một công ước chống tội phạm mạng, thì chẳng khác nào “giao trứng cho ác”.

Việt Nam không phải là một quốc gia tôn trọng nhân quyền hay tự do thông tin. Trái lại, trong nhiều năm liên tiếp, nhà cầm quyền CSVN luôn bịcác tổ chức quốc tế như Amnesty International, Human Rights Watch hay Freedom House lên án vì đàn áp quyền tự do ngôn luận, bắt bớ các nhà báo độc lập, facebookers, bloggers và những người bày tỏ chính kiến ôn hòa trên mạng. Trong bảng xếp hạng Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới của tổ chức Phóng viên Không Biên giới, Việt Nam thường xuyên đứng gần chót, thuộc nhóm những nước kiểm soát truyền thông gắt gao nhất.

Trong bối cảnh đó, không gian mạng tại Việt Nam không phải là nơi tự do trao đổi ý kiến, mà là một khu vực bị giám sát chặt chẽ bằng luật pháp mơ hồ, với một lực lượng an ninh mạng hùng hậu, được trang bị với các phương tiện kỹ thuật tinh vi. Những điều luật như “lợi dụng quyền tự do dân chủ”, “tuyên truyền chống nhà nước” hay “xâm phạm an ninh quốc gia” được sử dụng rộng rãi để trấn áp tiếng nói độc lập. Chỉ một bài viết, một bình luận, hay một đoạn video trái ý nhà cầm quyền cũng có thể trở thành bằng chứng buộc tội.

Khi một chính quyền như thế đứng ra tổ chức lễ ký kết một công ước quốc tế về chống tội phạm mạng, câu hỏi tự nhiên phải được đặt ra là: ai sẽ định nghĩa thế nào là “tội phạm mạng”? Ở những xã hội dân chủ, tội phạm mạng thường được hiểu là hành vi lừa đảo, xâm nhập trái phép, đánh cắp dữ liệu hay phá hoại hệ thống. Nhưng trong các chế độ độc tài, ranh giới giữa tội phạm và quyền tự do biểu đạt thường bị cố tình xóa nhòa. Người chỉ trích nhà nước rất dễ bị gán cho nhãn hiệu “phá hoại” hay “đe dọa an ninh”.

Những người bênh vực Công Ước Hà Nội có thể lập luận công ước này chỉ là một văn kiện pháp lý, nội dung của nó vẫn đề cập đến bảo vệ quyền riêng tư và hợp tác quốc tế. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, vấn đề không nằm ởvăn từ trên giấy, mà ở cách diễn giải và thực thi trong từng quốc gia. Một công ước, khi rơi vào tay một chính quyền không có báo chí độc lập, không có tòa án tự do và không chịu sự kiểm soát của xã hội dân sự, rất dễ trở thành công cụ hợp pháp hóa sự đàn áp, thay vì bảo vệ người dân.

Nguy hiểm hơn nữa là khi chọn Hà Nội làm nơi ký kết còn tạo ra một thứ hào quang giả tạo, giúp nhà cầm quyền CSVN đánh bóng hình ảnh quốc tế. Trong khi các nhà hoạt động nhân quyền vẫn bị giam giữ, các tiếng nói phản biện vẫn bị bịt miệng, thì cùng lúc đó, các tay lãnh đạo lại xuất hiện trên diễn đàn toàn cầu với tư cách một đối tác “có trách nhiệm” về an ninh mạng. Sự tương phản ấy không chỉ chua chát, mà còn mang tính đánh lừa dư luận quốc tế.

Không gian mạng, về bản chất, là nơi con người vượt qua biên giới để trao đổi thông tin, phản biện lại quyền lực và kết nối với nhau. Chống tội phạm mạng là nhu cầu chính đáng, nhưng không thể biến mục tiêu ấy thành cái cớ để siết chặt kiểm soát và bóp nghẹt tự do. Một công ước quốc tế chỉ có ý nghĩa khi nó được xây dựng và thực thi trên nền tảng tôn trọng nhân quyền, minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Vì vậy, trao vai trò biểu tượng cho một chế độ quen dùng công cụ pháp luật để trấn áp tiếng nói trên mạng chẳng khác nào “giao trứng cho ác”.

Hậu quả của sự kiệnđã hiển lộ rõ ràng qua việc chỉ một tháng sau lễ ký kết cái gọi là “Công Ước Hà Nội”, nhà cầm quyền CSVN đã phát lệnh truy nã các ông Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài, những người bất đồng chính kiến đã cư ngụ nhiều năm tại Cộng hòa Liên bang Đức. Tội danh quy chụp cho hai người này là “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.”theo điều 117 của bộ luật Hình Sự Việt Nam.

Đây là một lỗi lầm nghiêm trọng của cộng đồng quốc tế mà dân chúng Việt Nam phải gánh chịu hậu quả của nó./.

 

No comments:

Post a Comment