Kính thưa quý thính giả,
Hơn 700 trăm năm trước, nước Việt có một thầy giáo, một thầy thuốc và cũng là một
đại quan triều Trần được người đời nhớ đến qua tư tưởng đạo đức, cùng lối sống thanh bạch đầy tiết
tháo. Sự nghiệp của ông được ghi trong văn bia của Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi
xin gửi đến quý thính giả bài “Hiền sĩ Chu Văn An” của Việt Thái qua giọng đọc
của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Trong đền thờ Hiền sĩ Chu Văn An có 2 câu đối:
“Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc,
Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong”.
Tạm dịch:
Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi há chẳng phải là cái thú
vui của bậc hiền giả?
Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi mãi ngưỡng mộ phong thái
của kẻ triết nhân!
Chu Văn An sinh năm 1292, tên là Chu An, tự Linh Triệt, hiệu
là Tiều Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện
Thanh Đàm, Hà Nội. Ông đỗ Thái Học Sinh nhưng không ra làm quan, mở trường dạy học lấy
tên Huỳnh Cung. Mười năm năm liên tục ông dạy các môn sinh dự thi các kỳ thi hương, thi hội, thi đình (tức
tú tài, cử nhân, tiến sĩ). Các môn sinh ưu tú của Cụ được sách sử ghi lại như: Phạm Sư Mạnh, Lê Quát đỗ Thái Học Sinh đời vua Trần Anh Tông, và làm quan đến chức Tể Tướng.
Danh tiếng của nhà giáo Chu Văn An bay xa, lan đến triều đình, quan Tư đồ Trần Nguyên
Đán đến trường Huỳnh Cung tìm hiểu và xin vua ra chiếu chỉ mời ông vào triều dạy học.
Vào triều, ông
được vua Trần Minh Tông ủy thác dạy cho Thái tử Trần Vượng. Thái tử Trần Vượng lên ngôi vua lúc mới 10 tuổi, hiệu là Trần Hiến Tông.
Đến năm 20 tuổi, vua Trần Hiến Tông băng hà, nối ngôi là Trần Dụ Tông. Vị vua này cũng được ông dạy dỗ, mặc dù ông biết triều Trần đang suy vong.
Để chấn chỉnh triều cương, ông viết ''Thất trảm sớ'' xin vua chém đầu 7 tên nịnh thần, vua không nghe nên ông từ quan về sống ẩn dật tại Chí Linh lấy hiệu là Tiều Ẩn, chuyên tâm dạy học.
Thời gian sau, ông nổi tiếng về
dạy học, viết
sách và làm thơ. Ông viết "Tứ thư
thuyết ước” tổng kết các bài giảng cùng cách giáo
dục. Về thơ văn, ông có các tác phẩm đi vào văn học sử như "Quốc Âm thi
tập", ''Tiều Ẩn thi tập”.v.v.
Khi Trần
Phủ lên ngôi (tức vua Trần Nghệ Tông) ông chống gậy về triều chúc
mừng. Năm sau, ngày 28/11/1370, ông mất tại xã Kiệt Đắc, huyện
Chí Linh, tỉnh Hải Dương, hưởng thọ 78 tuổi.
Kính trọng tài năng, nhân cách và sự cống hiến của nhà giáo Chu Văn An, vua Trần Nghệ Tông ban tên thụy là Văn Trinh, lập đền thờ ở Văn Miếu và tại núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, đền có ghi 8 chữ: "Chu Văn Linh tiên sinh ẩn cư xứ".
Rất nhiều con đường
và trường học được đặt tên Chu
Văn An để ghi nhớ một người thầy đức cao trọng vọng của nền giáo dục Việt Nam.
* * *
Khi sinh thời, nhà giáo Chu Văn An có phương cách dạy
học hấp dẫn, khiến mọi người khâm phục. Những học
trò cũ đã làm quan lớn như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm ông vẫn luôn
khép nép khoanh tay lắng nghe những lời ông dạy bảo.
Trong lịch sử giáo dục, nhà giáo Chu Văn An được xếp vào địa vị cao quý trong danh sách các vị thầy tài cao, đức trọng. Ông trở thành một "vạn thế sư biểu" của nước
Việt, đúng
như Phan Huy Chú đã ngợi ca: "học
nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có
mình cụ, các người thầy khác không thể so sánh được".
Không ai biết rõ là suốt cuộc đời làm thầy giáo, ông đào tạo được
bao nhiêu môn sinh. Thế nhưng, ông là một trong số rất ít bậc hiền tài của đất
nước được thờ phượng trong Văn Miếu.
Điều đáng nói hơn nữa là khi nhắc đến tên ông, giới sĩ phu đều
hãnh diện về hành động dũng cảm khi ông dâng "Thất trảm sớ", xin nhà
vua chém đầu 7 tên nịnh thần đang làm loạn triều cương. Chỉ với khí tiết lẫm
liệt, một lòng vì vua vì nước của ông cũng đã xứng đáng để được hậu thế ca tụng
muôn đời. Điều đáng tiếc là vua Trần Dụ Tông không nghe lời ông, dẫn đến sự sụp
đổ của nhà Trần mà ông tiên đoán trước.
Thời gian gần đây, rất nhiều con cháu mang giòng máu kẻ sĩ
của Chu Văn An cũng gióng lên tiếng báo động về thảm họa diệt vong của dân tộc,
nhưng tập đoàn CSVN vẫn gát bỏ ngoài tai và chấp nhận làm nô lệ cho giặc Tàu để
đổi lấy vinh hoa phú quý. Không chỉ cam tâm cúi đầu trước kẻ thù truyền kiếp
phương Bắc, tập đoàn đê hèn này lại còn bắt bớ và triệt hạ các nhân sĩ trí thức
đang noi gương bậc tiên hiền Chu Văn An để cứu dân cứu nước.
Kể ra thì Hiền sĩ Chu Văn An có số may mắn hơn là con cháu
ông sau này, vì ông không bị vua nhà Trần bỏ tù hay chém đầu khi dâng "Thất
trảm sớ". Nếu sống dưới thời cộng sản hiện nay, có lẽ ông bị trù dập đến
chết vì dám đụng tới bầy sâu tham nhũng và bọn Việt Gian đang bán nước cầu vinh!
No comments:
Post a Comment