Kính thưa quý thính giả, thời cận đại ghi lại nhiều người yêu
nước, thương dân, bất khuất trước quân xâm lược. Trong đó, có một người
du học tại Nhật về nước truyền bá bài “Khuyến Khích Thanh Niên Du Học”
của cụ Phan Bội Châu … Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này,
chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Chí Sĩ Tăng Bạt Hổ” của Việt
Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để kết thúc chương trình phát thanh tối
hôm nay.
Việt Thái
Chí sĩ Tăng Bạt Hổ, tên thật là Tăng Doãn Văn, tự là Sư Triệu, hiệu là Điền Bát, là một sĩ phu tham gia chống Pháp vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ông sinh ngày 19/7/1858 tại làng An Thường, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
Năm 1872, khi mới 14 tuổi, Tăng Bạt Hổ đã tham gia chiến đấu chống Pháp trong hàng ngũ tướng Lưu Vĩnh Phúc của quân Cờ Đen. Sau thất bại của vụ binh biến đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu ở kinh thành Huế do phe chủ chiến Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cầm đầu, vua Hàm Nghi rút về căn cứ Tân Sở, xuất chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu cùng toàn dân đứng lên kháng chiến chống Pháp. Hưởng ứng hịch Cần Vương, Tăng Bạt Hổ cùng với Phạm Toàn chiêu mộ binh lính, rèn đúc vũ khí xây dựng chiến khu chống Pháp tại vùng rừng núi có địa thế hiểm trở tại huyện Hoài Ân.
Lực lượng kháng chiến quân tại tỉnh Bình Định phát triển mạnh mẽ và dần dần quy tụ dưới ngọn cờ lãnh đạo của Mai Xuân Thưởng. Tăng Bạt Hổ liên kết với lực lượng của Mai Xuân Thưởng và được giao nhiệm vụ giữ mặt trận phía bắc Bình Định. Ông cùng với Bùi Điền xây dựng và củng cố thêm khu Chóp Chài và hai cứ điểm tại đèo Phủ Cũ và đèo Bình Đê.
Trước tình thế này, thực dân Pháp và triều đình Nguyễn cử Nguyễn Thân và Trần Bá Lộc đem quân đàn áp phong trào kháng chiến ở Bình Định.
Đầu năm 1886, Tăng Bạt Hổ cử hai tướng Bùi Điền và Đỗ Duyệt đem quân giao chiến với Nguyễn Thân nhưng bị thất bại. Ông tiếp tục chiêu mộ thêm binh sĩ, củng cố thêm các đồn lũy để chống lại quân của Nguyễn Thân, nhưng trước thế mạnh của địch, hầu hết các chiến lũy của nghĩa quân đều bị phá vỡ.
Đầu năm 1887, Nguyễn Thân điều động đại quân đến triệt phá mật khu Kim Sơn, vây bắt Tăng Bạt Hổ. Mặc dù Nguyễn Thân không phá được mật khu Kim Sơn, nhưng vì quân ít và vũ khí thô sơ nên cuối cùng nghĩa quân tan rã, phải tản mát đến các bản làng Tây Nguyên.
Sau khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Tăng Bạt Hổ vượt núi sang Lào, Xiêm, Trung Hoa, Nga và Nhật để tìm Lưu Vĩnh Phúc, nhưng tướng Lưu Vĩnh Phúc đã từ trần. Ông quyết định theo nghề hàng hải, làm thủy thủ cho tàu buôn để quan sát nền văn minh của các nước và tìm thêm đồng chí. Chính vì thế ông thường qua lại các đảo Hoành Tân, Trường Kỳ của Nhật và sau đó ít năm, ông thông thạo tiếng Nhật và được tuyển mộ vào Hải quân Nhật Bản.
Trong chiến tranh Nga – Nhật, vì căm hờn thực dân Pháp, ông giúp Nhật đánh Nga, nổi tiếng là một chiến binh quả cảm, có công trận trong hai trận chiến Đài Liên và Lữ Thuận.
Ngày khải hoàn, ông được dự bữa đại yến do Minh Trị Thiên Hoàng thiết đãi. Khi cầm chén rượu do Thiên hoàng tự tay rót cho, ông uống cạn và khóc lớn. Thiên hoàng hỏi, ông giãi bày nỗi lòng: “Tôi vốn không phải là người Nhật mà là một người Việt Nam lưu vong. Sau khi thất bại trong việc chống Pháp, tôi trốn qua Xiêm, qua Trung Hoa rồi tới đây, may được Bệ hạ tin dùng. Nay thấy quý quốc thắng Nga, làm vẻ vang cho giống da vàng, tôi nghĩ đến tình cảnh nước tôi mà không cầm được giọt lệ”.
Hết thảy các người dự yến đều chăm chú nhìn vẻ mặt cương nghị và lắng nghe lời khảng khái của ông. Thiên hoàng Minh Trị khen ông là người ái quốc, an ủi ông mấy lời. Từ đó giới cầm quyền Nhật rất có cảm tình với ông.
Ông làm quen với các nghị sĩ Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Đại Ôi Trọng Tín, tỏ ý muốn cầu viện Nhật để đánh đuổi Pháp. Họ khuyên ông hãy chờ cơ hội vì nước Nhật đang bận đánh Nga và cũng chưa có hiềm khích gì với nước Pháp. Và họ khuyên ông cùng giới sĩ phu Việt là trước hết phải phát triển phong trào duy tân trong nước để nâng cao dân khí, dân trí. Nhưng muốn duy tân thì không thể trông cậy ở nước Pháp vì người Pháp không thực tâm muốn khai hóa VN, nên phải lựa những thanh niên tuấn tú đưa qua Nhật để họ giúp huấn luyện và đào tạo.
Khuyến Dưỡng Nghị, sau này là thủ tướng Nhật, cũng hứa tận lực giúp cho các học sinh Việt Nam được phép cư trú và được theo học miễn phí. Tăng Bạt Hổ nhận thấy lời khuyên hữu lý nên xin phép chính phủ Nhật cho ông hồi hương. Về tới Hải Phòng vào cuối năm 1904, ông về Quảng Nam, hội họp với Sào Nam và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Đầu năm sau, ông đưa Sào Nam và Đặng Tử Kính qua Nhật để cầu ngoại viện và tổ chức phong trào Đông Du. Năm 1905, ông lại về nước đem theo bài “Khuyến khích thanh niên du học” của cụ Phan Bội Châu để truyền bá.
Vì nghe tiếng cụ Lương Văn Can nghĩa khí, được nghĩa hội văn thân ở miền Bắc tín nhiệm, ông tìm đến để bàn tình hình trong nước cùng kế hoạch lâu dài. Tại đây ông nhờ cụ Lương giới thiệu các thanh niên ưu tú sang Nhật du học. Sau cuộc nói chuyện này, Lương Ngọc Quyến và Lương Nghị Khanh trở thành hai sinh viên Đông Du đầu tiên.
Năm 1906 trên đường từ Nam ra Huế ông lâm bệnh nặng và từ trần khi chưa đến 50 tuổi.
Ông được các chí sĩ khác an táng trên một gò cao thuộc ấp Thế Lại Thượng. Năm 1956, nhân sĩ Lê Ngọc Nghị đã cùng thân hào xã Thế Lại Thượng tổ chức lễ truy điệu và cải táng hài cốt Tăng Bạt Hổ trong khu lăng mộ Phan Bội Châu.
* * *
So với huyền thoại Hồ Chí Minh mà người cộng sản ra sức thêu dệt, thì HCM chỉ là con đom đóm so với một vì sao Tăng Bạt Hổ cả đời tận tụy vì vận mệnh dân tộc, kể từ khi mới lên 14 tuổi. Tuy cũng bôn ba hải ngoại, nhưng Tăng Bạt Hổ không phải làm bồi bếp trên tàu Tây mà lại được nước Nhật mến mộ vì tài năng hải hành và khả năng tác chiến của ông.
Chính vì thế, đọc tiểu sử Tăng Bạt Hổ, người ta không khỏi ngậm ngùi thương tiếc cho một sĩ phu văn võ song toàn đã được cả triều đình nước Nhật kính nể vì tấm lòng ái quốc của ông. Ông xứng đáng là tấm gương sáng trong khát vọng “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” mà nhiều người Việt đang đấu tranh để đất nước có được ngày hồi sinh sau 70 năm sống dưới ách cộng sản!
Chí sĩ Tăng Bạt Hổ, tên thật là Tăng Doãn Văn, tự là Sư Triệu, hiệu là Điền Bát, là một sĩ phu tham gia chống Pháp vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Ông sinh ngày 19/7/1858 tại làng An Thường, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
Năm 1872, khi mới 14 tuổi, Tăng Bạt Hổ đã tham gia chiến đấu chống Pháp trong hàng ngũ tướng Lưu Vĩnh Phúc của quân Cờ Đen. Sau thất bại của vụ binh biến đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu ở kinh thành Huế do phe chủ chiến Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cầm đầu, vua Hàm Nghi rút về căn cứ Tân Sở, xuất chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu cùng toàn dân đứng lên kháng chiến chống Pháp. Hưởng ứng hịch Cần Vương, Tăng Bạt Hổ cùng với Phạm Toàn chiêu mộ binh lính, rèn đúc vũ khí xây dựng chiến khu chống Pháp tại vùng rừng núi có địa thế hiểm trở tại huyện Hoài Ân.
Lực lượng kháng chiến quân tại tỉnh Bình Định phát triển mạnh mẽ và dần dần quy tụ dưới ngọn cờ lãnh đạo của Mai Xuân Thưởng. Tăng Bạt Hổ liên kết với lực lượng của Mai Xuân Thưởng và được giao nhiệm vụ giữ mặt trận phía bắc Bình Định. Ông cùng với Bùi Điền xây dựng và củng cố thêm khu Chóp Chài và hai cứ điểm tại đèo Phủ Cũ và đèo Bình Đê.
Trước tình thế này, thực dân Pháp và triều đình Nguyễn cử Nguyễn Thân và Trần Bá Lộc đem quân đàn áp phong trào kháng chiến ở Bình Định.
Đầu năm 1886, Tăng Bạt Hổ cử hai tướng Bùi Điền và Đỗ Duyệt đem quân giao chiến với Nguyễn Thân nhưng bị thất bại. Ông tiếp tục chiêu mộ thêm binh sĩ, củng cố thêm các đồn lũy để chống lại quân của Nguyễn Thân, nhưng trước thế mạnh của địch, hầu hết các chiến lũy của nghĩa quân đều bị phá vỡ.
Đầu năm 1887, Nguyễn Thân điều động đại quân đến triệt phá mật khu Kim Sơn, vây bắt Tăng Bạt Hổ. Mặc dù Nguyễn Thân không phá được mật khu Kim Sơn, nhưng vì quân ít và vũ khí thô sơ nên cuối cùng nghĩa quân tan rã, phải tản mát đến các bản làng Tây Nguyên.
Sau khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Tăng Bạt Hổ vượt núi sang Lào, Xiêm, Trung Hoa, Nga và Nhật để tìm Lưu Vĩnh Phúc, nhưng tướng Lưu Vĩnh Phúc đã từ trần. Ông quyết định theo nghề hàng hải, làm thủy thủ cho tàu buôn để quan sát nền văn minh của các nước và tìm thêm đồng chí. Chính vì thế ông thường qua lại các đảo Hoành Tân, Trường Kỳ của Nhật và sau đó ít năm, ông thông thạo tiếng Nhật và được tuyển mộ vào Hải quân Nhật Bản.
Trong chiến tranh Nga – Nhật, vì căm hờn thực dân Pháp, ông giúp Nhật đánh Nga, nổi tiếng là một chiến binh quả cảm, có công trận trong hai trận chiến Đài Liên và Lữ Thuận.
Ngày khải hoàn, ông được dự bữa đại yến do Minh Trị Thiên Hoàng thiết đãi. Khi cầm chén rượu do Thiên hoàng tự tay rót cho, ông uống cạn và khóc lớn. Thiên hoàng hỏi, ông giãi bày nỗi lòng: “Tôi vốn không phải là người Nhật mà là một người Việt Nam lưu vong. Sau khi thất bại trong việc chống Pháp, tôi trốn qua Xiêm, qua Trung Hoa rồi tới đây, may được Bệ hạ tin dùng. Nay thấy quý quốc thắng Nga, làm vẻ vang cho giống da vàng, tôi nghĩ đến tình cảnh nước tôi mà không cầm được giọt lệ”.
Hết thảy các người dự yến đều chăm chú nhìn vẻ mặt cương nghị và lắng nghe lời khảng khái của ông. Thiên hoàng Minh Trị khen ông là người ái quốc, an ủi ông mấy lời. Từ đó giới cầm quyền Nhật rất có cảm tình với ông.
Ông làm quen với các nghị sĩ Nhật như Khuyển Dưỡng Nghị, Đại Ôi Trọng Tín, tỏ ý muốn cầu viện Nhật để đánh đuổi Pháp. Họ khuyên ông hãy chờ cơ hội vì nước Nhật đang bận đánh Nga và cũng chưa có hiềm khích gì với nước Pháp. Và họ khuyên ông cùng giới sĩ phu Việt là trước hết phải phát triển phong trào duy tân trong nước để nâng cao dân khí, dân trí. Nhưng muốn duy tân thì không thể trông cậy ở nước Pháp vì người Pháp không thực tâm muốn khai hóa VN, nên phải lựa những thanh niên tuấn tú đưa qua Nhật để họ giúp huấn luyện và đào tạo.
Khuyến Dưỡng Nghị, sau này là thủ tướng Nhật, cũng hứa tận lực giúp cho các học sinh Việt Nam được phép cư trú và được theo học miễn phí. Tăng Bạt Hổ nhận thấy lời khuyên hữu lý nên xin phép chính phủ Nhật cho ông hồi hương. Về tới Hải Phòng vào cuối năm 1904, ông về Quảng Nam, hội họp với Sào Nam và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Đầu năm sau, ông đưa Sào Nam và Đặng Tử Kính qua Nhật để cầu ngoại viện và tổ chức phong trào Đông Du. Năm 1905, ông lại về nước đem theo bài “Khuyến khích thanh niên du học” của cụ Phan Bội Châu để truyền bá.
Vì nghe tiếng cụ Lương Văn Can nghĩa khí, được nghĩa hội văn thân ở miền Bắc tín nhiệm, ông tìm đến để bàn tình hình trong nước cùng kế hoạch lâu dài. Tại đây ông nhờ cụ Lương giới thiệu các thanh niên ưu tú sang Nhật du học. Sau cuộc nói chuyện này, Lương Ngọc Quyến và Lương Nghị Khanh trở thành hai sinh viên Đông Du đầu tiên.
Năm 1906 trên đường từ Nam ra Huế ông lâm bệnh nặng và từ trần khi chưa đến 50 tuổi.
Ông được các chí sĩ khác an táng trên một gò cao thuộc ấp Thế Lại Thượng. Năm 1956, nhân sĩ Lê Ngọc Nghị đã cùng thân hào xã Thế Lại Thượng tổ chức lễ truy điệu và cải táng hài cốt Tăng Bạt Hổ trong khu lăng mộ Phan Bội Châu.
* * *
So với huyền thoại Hồ Chí Minh mà người cộng sản ra sức thêu dệt, thì HCM chỉ là con đom đóm so với một vì sao Tăng Bạt Hổ cả đời tận tụy vì vận mệnh dân tộc, kể từ khi mới lên 14 tuổi. Tuy cũng bôn ba hải ngoại, nhưng Tăng Bạt Hổ không phải làm bồi bếp trên tàu Tây mà lại được nước Nhật mến mộ vì tài năng hải hành và khả năng tác chiến của ông.
Chính vì thế, đọc tiểu sử Tăng Bạt Hổ, người ta không khỏi ngậm ngùi thương tiếc cho một sĩ phu văn võ song toàn đã được cả triều đình nước Nhật kính nể vì tấm lòng ái quốc của ông. Ông xứng đáng là tấm gương sáng trong khát vọng “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” mà nhiều người Việt đang đấu tranh để đất nước có được ngày hồi sinh sau 70 năm sống dưới ách cộng sản!
No comments:
Post a Comment