Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm Canh Dần (1650) tại thôn Phước Long, huyện Phong Lộc, nay thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Thuở nhỏ tên là Nguyễn Hữu Lễ, tổ tiên của ông là Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc, một vị tướng tài ba của vua Đinh Tiên Hoàng. Ông cũng là cháu 9 đời của đức Nguyễn Trãi, cha ông là Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Đạt, người đã góp nhiều công sức cho chúa Nguyễn trong cuộc chiến chống chúa Trịnh.
Lớn lên trong thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, ông chuyên tâm luyện tập võ nghệ để theo cha đi chinh chiến. Tuy còn trẻ tuổi, nhưng ông đã lập được nhiều chiến công và được chúa Nguyễn Phúc Tần phong chức Cai cơ, một chức võ quan bậc cao. Và vì ông sinh năm Dần, có nước da ngăm đen, vóc dáng vạm vỡ, nên được người dân trong vùng gọi là Hắc Hổ.
Năm 1681, cha ông mất, ông cùng người anh ruột tên Nguyễn Hữu Hào tiếp nối nghiệp cha. Trong việc xử thế, ông luôn cẩn trọng nên được lòng thương mến của mọi người.
Khoảng năm 1690 – 1691, tình hình biên giới Việt – Chiêm căng thẳng. Vua Chiêm là Kế Bà Tranh đem quân vượt biên giới giết hại dân Việt ở Diên Ninh (Phú Yên).
Đầu năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu phong cho ông làm Thống Binh cùng với Tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân bình định biên cương và giao cho ông trấn thủ vùng đất mới đặt tên là trấn Thuận Thành.
Ông cho quân lính khai khẩn đất hoang, ổn định cuộc sống và trật tự xã hội cho dân chúng trong vùng, nên trấn Thuận Thành ngày càng phát triển về nhân số.
Mấy năm sau, chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử ông làm Thống suất vào Nam kinh lược và thiết lập bộ công quyền, đặt nền pháp trị và xác định cương thổ quốc gia.
Theo đường biển, quân của ông đi ngược dòng sông Đồng Nai đến Cù lao Phố (một cảng sầm uất nhất miền Nam thời bấy giờ). Sau đó, ông lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn và đặt hai đơn vị hành chính đầu tiên là huyện Phước Long và Tân Bình dưới quyền của phủ Gia Định.
Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí ghi: “Đất đai mở rộng hơn ngàn dặm, dân số có thêm bốn vạn hộ”. Ông cất đặt các quan viên trông coi mọi việc như: Ký lục (lo về hành chính, thuế khóa), Lưu thủ (lo về quân sự) và Cai bộ (lo về tư pháp).
Đối với người Hoa, ông tập hợp họ vào những khu hành chánh riêng như xã Thành Hà (Trấn Biên), xã Minh Hương (Phiên Trấn). Ông chiêu mộ nhiều dân di cư đi khẩn hoang lập ấp.
Đại Nam liệt truyện ghi chép: “ông đã chiêu mộ dân phiêu tán từ châu Bố Chánh (nay là Quảng Bình) trở vào Nam vào đất ấy (tức là đất Trấn Biên và Phiên Trấn), rồi đặt xã thôn, phường ấp, định ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ đinh”. Từ đó, biên giới nước Việt đã mở rộng đến vùng này.
Năm 1700, ông cầm quân tiến xuống vùng biên giới Tây Nam. Nhờ uy danh, ông đã nhanh chóng giải quyết tình hình bất an trong vùng. Nhưng sau đó, do bị bệnh nặng ông qua đời, lúc vừa tròn 50 tuổi.
Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh là vị tướng cầm quân biết dùng tài đức để an dân. Ông đã có công lớn trong sự nghiệp Nam tiến, đã mang lại cuộc sống ấm no cho dân chúng nên ông được dân ở nhiều vùng kính phục, nhớ ơn và tôn thờ.
Để tưởng nhớ công đức của ông, người dân ở nhiều nơi lập đền thờ ông. Ngoài ra, họ tên và chức tước của ông còn được đặt cho nhiều đường phố và trường học.
Ngày nay, đền thờ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vẫn tồn tại ở nhiều địa phương. Trong đó, lớn nhất là ở An Giang, Đồng Nai và Quảng Bình. Đặt biệt là ở Nam Vang cũng có đền thờ ông.
Văn thơ ca ngợi công đức của ông còn lưu giữ khá nhiều, điễn hình như một bài thơ trong đền Lễ Công ở Châu Đốc:
Từ ngày vâng lệnh Trấn Bình Khương,
Bờ cõi mở thêm mấy dặm trường.
Vun bón cột nền nơi tổ phụ,
Dãi dầu tên đạn giúp quân vương.
Giặc ngoài vừa nép bên màn hổ,
Sao tướng liền sa giữa giọt tương!
Việt Thái
No comments:
Post a Comment