Tuesday, April 8, 2014

Một cách nhìn về chính trị: Địa chiến lược

Thứ Ba, ngày 08.04.2014    
Quyền lợi tối thượng của tổ quốc Việt Nam hoàn toàn tùy thuộc vào tầm nhìn chiến lược của giới lãnh đạo. Đảng CSVN, vì quyền lợi phe nhóm và ý thức hệ giáo điều đã thiếu hẳn tầm nhìn chiến lược này. Mời quý thính giả nghe phần Bình Luận của Nguyễn Hưng Quốc với tựa đề: "Một cách nhìn về chính trị: Địa chiến lược" sẽ được Song Thập trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Cách suy nghĩ về chính trị của phần lớn người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, cho đến nay, thường bị chi phối bởi ba yếu tố: một, kinh nghiệm; hai, ý thức hệ; và ba, lịch sử.
Yếu tố đầu, kinh nghiệm cá nhân, dễ thấy nhất nhưng cũng chủ quan, nhiều cảm tính nhất, và do đó, ít giá trị nhất. Kinh nghiệm tùy thuộc vào hoàn cảnh và thời điểm: Những người thuộc hoàn cảnh và thời điểm khác nhau sẽ có những kinh nghiệm khác nhau. Sử dụng kinh nghiệm để phán đoán, do đó, rất ít có sức thuyết phục, và càng ít có khả năng đạt đến đồng thuận. Những người sống ở miền Bắc và ở miền Nam trước năm 1975, cho đến nay, vẫn có nhiều xung khắc trong quan điểm về rất nhiều vấn đề liên quan đến chính trị Việt Nam cũng như quốc tế là vì vậy.
So với kinh nghiệm, hai yếu tố ý thức hệ và lịch sử rộng hơn nhưng cũng có những hạn chế nhất định. Cả hai đều có tính thời gian. Lịch sử có tính thời gian đã đành; ngay cả ý thức hệ, một hệ thống tư tưởng dùng để chỉ đạo và biện chính cho các lựa chọn chính trị của một thể chế, cũng có tính thời gian: Chúng xuất hiện rồi chúng suy tàn, cuối cùng, biến mất. Khăng khăng ôm giữ lấy kinh nghiệm lịch sử hay ý thức hệ để phán đoán, người ta dễ có nguy cơ trở thành tù nhân của quá khứ, từ đó, chỉ nhìn được hiện tại và hiện thực qua kính chiếu hậu.
Có thể thấy cả ba yếu tố trên chi phối một cách rõ rệt cách nhìn của nhiều người Việt về cuộc khủng hoảng chính trị mới đây tại Ukraine. Người đã từng du học ở Nga hoặc có thời xem Nga là một đồng minh gần gũi dễ có khuynh hướng bênh vực cho việc Nga xâm chiếm vùng đất Crimea của Ukraine. Những người không thích Nga, từ Nga thời độc-tài-cộng-sản đến Nga thời độc-tài-hậu-cộng-sản, dễ có khuynh hướng đả kích Nga kịch liệt. Cả việc bênh hay chống đều đậm màu sắc cảm tính, do đó, người ta ít hay không để ý đến nhiều khía cạnh khác, lớn hơn, liên quan đến một số toan tính chiến lược có thể ảnh hưởng đến bàn cờ chính trị của cả thế giới sau này.
Liên quan đến chính trị, đặc biệt chính trị quốc tế, ở Tây phương người ta thực tế hơn. Lord Palmerston (tên thật Henry John Temple, 1784-1865), nguyên thủ tướng Anh, có nói một câu, sau này, trở thành một châm ngôn thường được nhắc đi nhắc lại trong nhiều trường hợp nhằm giải thích các quan hệ đối ngoại của các quốc gia thuộc Âu châu và Bắc Mỹ, đặc biệt, của Mỹ: "Chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn, chúng ta không có kẻ thù vĩnh viễn, chúng ta chỉ có những lợi ích vĩnh viễn (We have no permanent allies, we have no permanent enemies, we only have permanent interests.)
Không nhận ra được sự thật ấy, nhiều người làm chính trị ở miền Nam trước năm 1975 vẫn tưởng là Mỹ, sau khi đã bắt tay với Trung cộng để phân hóa khối xã hội chủ nghĩa và làm suy yếu Liên Xô, vẫn tiếp tục là đồng minh đắc lực và tận tụy với mình. Cũng vì không nhận ra sự thật ấy, giới lãnh đạo miền Bắc, trước năm 1975, cứ tưởng Trung Quốc vĩnh viễn là đồng minh và đồng chí thân thiết nhất của mình. Thậm chí, ngay cả sau khi bị Trung Quốc, một mặt, xúi Khmer Đỏ tấn công ở biên giới Tây Nam; mặt khác, trực tiếp xua quân qua tấn công ở biên giới phía Bắc, vẫn cứ tưởng Trung Quốc lúc nào cũng là anh em xã hội chủ nghĩa. Rồi, sau đó, khi Trung Quốc lấn biển và chiếm đảo, dùng mọi thủ đoạn để gây khổ cho ngư dân và gây khó cho chính quyền, họ vẫn cứ tưởng Trung Quốc là "láng giềng tốt", "đối tác tốt" và "đồng chí tốt".
Nếu với Trung Quốc, giới lãnh đạo Việt Nam sai lầm ở chỗ vĩnh cửu hóa đồng minh; với Mỹ, họ lại sai lầm ở chỗ đã vĩnh cửu hóa kẻ thù. Trước năm 1975, họ xem Mỹ, vốn đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa, là một kẻ thù. Ngay bây giờ, trong khi hầu hết những nhà bình luận chính trị đều xem chỉ có Mỹ may ra mới cứu Việt Nam ra khỏi hiểm họa Trung Quốc, họ vẫn không thoát được cách nghĩ trong quá khứ. Vẫn nghi ngờ. Vẫn lo ngại. Vẫn nhìn thế giới dưới nhãn quan thời Chiến tranh lạnh, ở đó, thế giới bị chia cắt thành hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Vẫn xem Mỹ như một kẻ đứng đằng sau các âm mưu "diễn tiến hòa bình" để lật đổ họ hoặc để xâm chiếm Việt Nam. Do đó, các trò ngoại giao với Mỹ cứ đong đưa, đong đưa, trong khi đó, gọng kềm của Trung Quốc càng lúc càng chặt trong mọi lãnh vực, từ quân sự đến chính trị, kinh tế, xã hội và cả văn hóa nữa.
Những cách nhìn bị giam hãm trong ý thức hệ và lịch sử như vậy khiến người ta vĩnh viễn thuộc về quá khứ. Ở người dân thường, tác hại của chúng không lớn lắm. Nhưng với giới làm chính trị, với trọng trách lãnh đạo quốc gia, thì khác: Chúng khiến người ta mất đi những tầm nhìn có tính chiến lược.
Nói chung, từ góc nhìn địa chính trị, hầu như ai cũng đồng ý Mỹ là quốc gia may mắn nhất thế giới.
Được thiên nhiên ưu ái bảo vệ, trong suốt cả thế kỷ 20 và bước sang thế kỷ 21, Mỹ chỉ quan tâm đến địa chiến lược ở tầm toàn cầu. Thời chiến tranh lạnh, họ đẻ ra thuyết domino với quan niệm: nếu cộng sản chiếm được một nước, nó sẽ dần dần lan sang nước khác bên cạnh; bởi vậy, công việc chống cộng sản một cách hiệu quả nhất là bao vây các nước cộng sản và ngăn chận sự phát triển của nó. Xuất phát từ thuyết domino ấy, Mỹ đã quyết định nhảy vào Việt Nam, thay thế vai trò của Pháp.
Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, từ quan điểm địa chiến lược, Mỹ tiếp tục theo đuổi ba chủ trương chính: Một, tiếp tục duy trì lực lượng quân sự cực lớn và cực mạnh ở Bắc Mỹ; hai, tiếp tục duy trì thế thượng phong về hải quân để có thể đương đầu với các thử thách đến từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt với những siêu cường mới nổi và có khả năng tranh chấp với Mỹ, trong đó, đáng kể nhất là Trung Quốc; và ba, tiếp tục duy trì và xây dựng các quan hệ đồng minh để tạo nên sức mạnh toàn cầu. Trước, trung tâm của cái gọi là đồng minh ấy nằm ở Âu châu với việc mở rộng Liên hiệp Âu châu và khối NATO; sau, từ mấy năm nay, mở rộng sang các đồng minh ở châu Á, chủ yếu với Nhật, Hàn Quốc và Úc để bao vây Trung Quốc.
Trong cách nhìn địa chiến lược như vậy, Việt Nam không những không còn là kẻ thù của Mỹ mà còn có triển vọng trở thành một đồng minh quan trọng của Mỹ trong việc bảo vệ con đường hàng hải qua Biển Đông cũng như trong việc ngăn chận đà bành trướng của Trung Quốc: Trong hai việc này, Việt Nam có ưu thế hơn hẳn các quốc gia khác ở Đông Nam Á.
Việt Nam có khai thác được ưu thế ấy để tìm được một chiến lược tối ưu nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền cũng như sự phát triển của nước mình hay không là tùy vào tầm nhìn của giới lãnh đạo, trong đó, quan trọng nhất, chính là tầm nhìn địa chiến lược.
Nguyễn Hưng Quốc

No comments:

Post a Comment