Kính thưa quý thính giả,
Một thi sĩ lãng mạn nổi tiếng từ thập niên 1950, được giới trí thức và sinh viên học sinh Sài Gòn ca tụng. Thơ của ông trong trẻo, trữ tình và mát lạnh như dòng suối chảy vào tâm hồn tuổi trẻ. Đặc biệt, là từ khi nhạc sĩ Anh Bằng và Ngô Thụy Miên phổ nhạc, thơ của ông đã đi vào lòng người. Đến nay đã hơn 70 năm, nhưng các nhạc phẩm này vẫn còn lôi cuốn thính giả mỗi khi nghe.
Trong chuyên mục Danh nhân nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Thi sĩ Nguyên Sa” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Nguyên Sa tên thật là Trần Bích Lan, sinh ngày 1/3/1932 tại Hà Nội. Thân phụ là ông Trần Văn Chi, thân mẫu là bà Đoàn Thị Xuân. Gia đình gốc Huế, ông cố tên là Trần Trạm, Thượng thư Bộ Lại, sau khi qua đời, được vua Tự Đức truy tặng chức Hiệp Tá Đại Học Sĩ, Vinh Lộc Đại Phu.
Đến đời ông nội, gia đình ông di chuyển ra Hà Nội. Khi chiến tranh bùng nổ, cả gia đình tản cư vào Hà Đông. Tại đây, Trần Bích Lan bị Việt Minh bắt giam khi mới 15 tuổi. Sau một thời gian, ông được thả về sống ở Hà Nội và được gia đình đưa qua Pháp du học vào năm 1949.
-Năm 1953, ông đậu tú tài Pháp, lên Paris học triết tại Đại học Sorbonne.
-Năm 1955, ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris.
-Đầu năm 1956, hai người về nước, sinh sống tại Sài Gòn. Ở Sài Gòn, ông dạy môn triết ở trường Chu Văn An và ông mở 2 trường tư thục Văn Học và Văn Khôi. Ngoài ra, ông còn dạy ở nhiều trường khác như: Văn Lang, Hưng Đạo, Nguyễn Bá Tòng, Thủ Khoa, Thượng Hiền, Võ Trường Toản, Bồ Đề. Có một thời gian ông dạy tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn.
Hơn thế nữa, ông và bè bạn ra Tạp chí Hiện Đại. Tạp chí này cùng với Sáng Tạo và Thế kỷ 20, được xem là 3 tạp chí hàng đầu ở VN thời bấy giờ.
-Năm 1971, khi tập thơ của ông được Tập hợp Gió xuất bản, trong đó có bài thơ tựa đề Cần Thiết lọt vào tầm mắt của nhạc sĩ Anh Bằng. Một thời gian sau, Anh Bằng lấy ý của bài thơ này để soạn ca khúc Nếu Vắng Anh. Nhạc phẩm này được công chúng ái mộ, vì sáng tạo ra tình cảm thương nhớ của cô gái có người tình đang hành quân xa ngoài biên ải.
Một trong 3 bài thơ chia ly được Nguyên Sa viết tặng cho vùng đất nơi ông nương náu trọ học, ông tìm thấy tình yêu đích thực của đời mình là: Tiễn Biệt (viết năm 1953), Paris (viết năm 1954) và Paris Có Gì Lạ Không Em (viết năm 1955). Và mãi đến gần 20 năm sau, Ngô Thụy Miên (một nhạc sĩ trẻ) đã đồng cảm với ông khi cũng sang Pháp du học, lấy các bài thơ này phổ nhạc: Áo Lụa Hà Đông, Tuổi Mười Ba, Paris Có Gì Lạ Không Em… và ngay lập tức, các nhạc phẩm này trở thành một hiện tượng nóng bỏng trong giới trẻ miền Nam thời đó.
Nhiều nhạc sĩ khác cũng phổ nhạc vào thơ Nguyên Sa như: Phạm Duy (Vết Sâu), Phạm Đình Chương (Màu Kỷ Niệm), Anh Bằng (Mai Tôi Đi), Song Ngọc (Tiễn Đưa), Hoàng Thanh Tâm (Tháng Sáu Trời Mưa), Phạm Anh Dũng (Hư Ảo Trăng) .v.v.
-Năm 1975, Nguyên Sa rời Việt Nam qua Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình được sang Hoa Kỳ, định cư ở tiểu bang California. Ở nơi này, ông sáng lập Tạp chí Đời, thành lập nhà xuất bản Đời và trung tâm băng nhạc Đời.
-Ngày 18/4/1998, ông từ trần tại thành phố Westminster, California. Hưởng thọ 66 tuổi.
*****
Nguyên Sa là một nhà thơ nổi tiếng từ thập niên 1950, với những tác phẩm đi vào lòng giới mộ điệu như: “Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi mười ba”, “Tháng sáu trời mưa”, “Hư ảo trăng”.
Vào những năm 1954 - 1960, miền Nam có một sức sống mới, một niềm tin mới, nhờ nhiều thầy giỏi và tốt, hướng dẫn tuổi trẻ vào con đường suy nghiệm. Nguyên Sa đã bắc cầu giữa văn chương, triết học và đời sống cho thanh niên. Ông cho học trò hiểu, triết học là con đường vào đời với hành trang chính là sáng tạo.
Trần Bích Lan được Nguyễn Khắc Hoạch, khoa trưởng Đại học Văn Khoa xếp vào "tứ trụ" triết Tây, nhưng Nguyên Sa không giống 3 "trụ" kia là: Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn và Nguyễn Văn Trung. Bởi ông tiếp cận với học trò trung học, trong khi các thầy kia phải chờ gặp ở đại học. Ông giải mã những vần đề khô khan của triết học một cách dí dỏm, hài hước, lồng triết học vào văn thơ để phát động những tiếng cười rộn rã.
Triết học hiện sinh mà ông gọi là triết học hiện hữu, vẫn là triết học tìm hiểu con người cụ thể, không trừu tượng trong triết học cổ điển. Dưới ngòi bút của ông, mọi sự nhẹ nhàng hơn, dễ thẩm thấu hơn, dễ phổ cập và quyễn rũ hơn, khiến học trò dù ở tuổi nào cũng có thể "nhập môn", mà không bị đè nặng dưới từ ngữ cùng lý thuyết. Và đó là nét đặc biệt của Nguyên Sa Trần Bích Lan.
Tháng Giêng Mai Thảo đã qua,
Tháng Tư chợt nhớ Nguyên Sa, lại buồn.
Đó là 2 câu thơ của Ngọc Hoài Phương nhắc nhớ nhà thơ Mai Thảo và Nguyên Sa.
Kính chào vĩnh biệt một thi sĩ tài hoa của đất nước.
No comments:
Post a Comment