Wednesday, November 12, 2025

Bí Mật Nhà Nước’- Cái Khiên Che Đạy Những Sai Lầm Của Chế Độ

Đất Nước Đứng Lên

Che dấu sự thật là thủ thuật sở trường của tập đoàn CSVN để củng cố ngôi vị độc tôn thống trị đất nước.

Trong chuyên mục DNDL hôm nay, kính mời quý thính giả theo dõi bài viết của Vũ Hoàng Lan, thành viên Ban Biên Tập Đài ĐLSN, tựa đề “’Bí Mật Nhà Nước’- Cái Khiên Che Đạy Những Sai Lầm Của Chế Độ”, sẽ do Miên Dương trình bày sau đây ...

Trong thời gian qua, truyền thông nhà nước CSVN liên tiếp loan tin về các vụ bắt giữ viên chức cao cấp trong guồng máy chính quyền, được viện dẫn bằng các điều khoản mơ hồ về “làm lộ bí mật Nhà nước”. Một trong những trường hợp gây chú ý nhất là ông Nguyễn Văn Bình, Trưởng phòng Pháp chế Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, bị khởi tố về tội “cố ý tiết lộ bí mật Nhà nước”. Báo chí chỉ nêu ngắn gọn vài dòng, không nói “bí mật” ấy là gì, tiết lộ cho ai, và tại sao lại gọi là “cố ý”. Chính sự mù mờấy phơi bày thực trạng: pháp luật được vận dụng như một công cụ chính trị hơn là phương tiện bảo vệ công lý.

Trên thế giới, khái niệm “bí mật quốc gia” bao giờ cũng đi kèm giới hạn rõ ràng. Một quốc gia có chủ quyền dĩ nhiên cần bảo vệ an ninh của mình, nhưng luật pháp văn minh phải biết cân bằng giữa lợi ích Nhà nước và quyền công dân. Theo bộ tài liệu hướng dẫn quốc tế nhằm cân bằng giữa an ninh quốc gia và quyền được biết của công chúng, thường được gọi là “Các Nguyên tắc Tshwane”, do hơn 500 chuyên gia của 70 quốc gia soạn thảo, ban hành năm 2013, đã định nghĩa rõ ràng rằng: bí mật chỉ được công nhận khi nhằm phục vụ lợi ích công cộng chính đáng, và không được cản trở quyền tiếp cận thông tin của dân chúng. Ở những quốc gia có nền pháp trị đúng nghĩa, toà án giữ vai trò trọng tài: khi xảy ra tranh chấp, chính cơ quan tư pháp phán định đâu là giới hạn hợp lý giữa bảo mật và minh bạch.

Nhưng tại Việt Nam thì không có cơ chế đối trọng ấy. “Bí mật Nhà nước” tại đây là một khái niệm mơ hồ, có thể được chính quyền giải thích tùy tiện để bịt miệng người dân. Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước hiện hành không hề định nghĩa rõ ràng thế nào là “bí mật”, cũng không nêu tiêu chuẩn khách quan để xác định mối liên hệ giữa bí mật và an ninh quốc gia. Luật ấy chỉ mô phỏng hình thức quốc tế – phân loại thành “tuyệt mật”, “tối mật”, “mật” – nhưng lại thiếu căn bản của pháp quyền -- tức là tính minh bạch, tính giải trình và quyền giám sát của công dân.

Thực ra, gốc rễ của sự mơ hồ này nằm trong tâm thức chính trị còn in dấu chiến tranh. Đảng Cộng sản Việt Nam, từ khi nắm chính quyền, luôn xem xã hội như một chiến trường âm mưu, trong đó “thế lực thù địch” có thểẩn nấp ở khắp nơi. Vì vậy, bất cứ hoạt động độc lập nào của người dân – kể cả việc lập hội công nhân – đều bị nhìn bằng con mắt ngờ vực. Tâm lý “sợ bị xâm nhập” ấy, cộng với mô hình hành chính sao chép từ Liên Xô, đã biến cái gọi là “bí mật quốc gia” thành tấm màn che phủ cho mọi quyết định tùy tiện.

Một nghị định của Thủ tướng ban hành gần đây đã minh chứng điều đó. Trong lĩnh vực lao động – xã hội, chính phủ liệt kê cảnhững “báo cáo về tình hình thành lập và hoạt động của các tổ chức công nhân tại doanh nghiệp có khả năng ảnh hưởng đến an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng” vào loại tài liệu mật. Nói cách khác, chỉ cần ai đó nghiên cứu về công đoàn, hay đề nghị thành lập một tổ chức bảo vệ quyền lợi lao động, cũng có thể bị quy là đe dọa an ninh quốc gia! Sự suy diễn quái đản đó phản ảnh một não trạng bệnh hoạn, đặt quyền thống trị của Đảng lên trên mọi giá trị nhân quyền và pháp quyền.

Các quốc gia dân chủ không những cho phép mà còn khuyến khích công nhân tự tổ chức, thương lượng, và phê phán chính sách lao động của chính phủ. Những quốc gia này hiểu rằng quyền lập hội và quyền được thông tin là nền tảng của một xã hội ổn định. Việt Nam, trái lại, vẫn hành xử như thểmột lời nói thật cũng có thể làm sập chế độ. Cái “bí mật” mà họ hăng hái bảo vệ không phải là bí mật quốc phòng hay kỹ thuật, mà là bí mật về sự yếu kém, tham nhũng, và bất lực trong guồng máy cai trị.

Những vụ bắt giữ kiểu ông Nguyễn Văn Bình vì thế không phải là thực thi pháp luật, mà là thông điệp răn đe: ai trong nội bộ dám nói khác, dám công khai bất cứ điều gì ngoài khuôn khổ, đều có thể bị trừng trị. Đây chính là phương thức quản trị bằng sợ hãi – một phương thức chỉ có thể tồn tại trong môi trường không có tự do báo chí và không có tòa án độc lập. Khi quyền được biết bị bóp nghẹt, xã hội mất khả năng tự điều chỉnh, và chính nhà nước cũng mất cơ hội sửa sai.

Điều đáng nói là, theo Hiến pháp Việt Nam, “mọi người có quyền tiếp cận thông tin”. Nhưng quyền ấy chỉ tồn tại trên giấy, vì cùng lúc đó, Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước lại trao cho các bộ ngành quyền tùy ý quyết định cái gì là “bí mật”. Không có cơ quan nào độc lập để kiểm soát sự tùy tiện ấy. Chính sự thiếu minh bạch đã khiến hệ thống pháp luật trởthành công cụ phục vụ cho ý chí chính trị hơn là cho công lý xã hội.

Đã đến lúc người dân phải được biết những gì liên quan đến đời sống của họ. Những chính sách về lao động, về công đoàn, về an sinh xã hội không thể bị che giấu sau tấm bảng “tài liệu mật”. Vì khi cái gì cũng là bí mật, thì công lý, sự thật, và lòng tin đều trở thành nạn nhân. Một quốc gia tự tin và chính danh không cần đến bóng tối để tồn tại./.

 

No comments:

Post a Comment