Thứ Bảy 18.06.2016
Kính thưa quý thính giả, Sử sách ghi lại gần một ngàn năm trước, nước Việt có một dũng tướng theo đức Lý Thường Kiệt tiến quân vào nước Tống tấn công Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm. Quân nhà Tống phải bỏ chạy và không dám đuổi theo khi quân Đại Việt rút về nước.Trong tiết mục Danh nhân nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Dũng tướng Tôn Đản" của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Tôn Đản tên thật là Nùng Tôn Đản sinh năm 1046 tại tổng Kim Pha, Châu
Quảng Nguyên thuộc đạo Thái Nguyên (nay là Nà Cạn, phường Sông Bằng,
thị xã Cao Bằng). Cha ông là Nùng Tồn Thương làm Châu mục Châu Quảng
Nguyên, là người có công giúp nhà Lý bình định vùng biên giới Cao Bằng,
Lạng Sơn.
Tôn Đản là một trong những tù trưởng nổi tiếng giỏi võ, được đức Lý Thường Kiệt trọng dụng giao chỉ huy đoàn quân thiện chiến.
Năm 1072, vua Lý Thánh Tông băng hà, vua Lý Nhân Tông mới 6 tuổi lên
nối ngôi. Nhà Tống cho rằng đây là một cơ hội tốt nên chuẩn bị xâm lăng
Đại Việt.
Lúc bấy giờ, Vương An Thạch lên nắm quyền Tể tướng nhà Tống, có ý lập
công ở ngoài biên giới. Quan giữ chức Tri châu của Châu Ung là Tiêu Chú
đón biết ý định của Vương An Thạch, liền dâng thư nói rằng, Giao Châu
tuy đã giữ đúng lệ triều cống nhưng thực ra thì không phục, nếu không
đánh chiếm thì sau này sẽ mang họa.
Vua nhà Tống tin lời, bèn xuống chiếu cho Trầm Khởi đang nắm chức Tri
châu Quế Châu chuẩn bị quân đội sang đánh Đại Việt. Về sau Trầm Khởi
mắc tội nên bị bãi chức, Lưu Di được cử thay thế, cho quân đóng thêm
chiến thuyền để tiến quân bằng đường thủy. Cùng lúc đó, nhà Tống ra lệnh
cấm các châu huyện mua bán hoặc trao đổi hàng hóa với Đại Việt. Vua Lý
Nhân Tôn gửi kháng thư sang nhà Tống thì bị Lưu Di ém nhẹm.
Nghe tin nhà Tống có ý đồ xâm lấn Đại Việt, đức Lý Thường Kiệt tâu
với vua Lý Nhân Tông rằng: "Ngồi chờ quân địch đến, chi bằng ta đánh
trước."
Vua chuẩn tấu, giao cho Lý Thường Kiệt thống lãnh 10 vạn quân đánh
phủ đầu quân Tống ngay trên đất Tàu. Đích thân đức Lý Thường Kiệt chỉ
huy đánh vào châu Khâm với châu Liêm, và giao cho Tôn Đản trách nhiệm
tấn công châu Ung.
Trong 3 châu thì châu Ung ở cách xa biên giới Đại Việt, có thành trì
kiên cố, quân số đông đảo, lương thực dồi dào và vũ khí đầy đủ. Theo đức
Lý Thường Kiệt, nếu không chiếm được châu Ung thì rất dễ bị sa lầy ở
đất Tống, tình hình sẽ chuyển biến theo chiều hướng bất lợi cho quân Đại
Việt. Thế nhưng dũng tướng Tôn Đản đã xuất sắc nhiệm vụ của mình, xứng
đáng với sự tin cậy ủy thác của chủ tướng Lý Thường Kiệt và quân dân Đại
Việt lúc bấy giờ.
Vào ngày 30/12/1075, quân Đại Việt chiếm được Khâm Châu. Ngày
2/1/1076, quân Đại Việt tràn vào Liêm Châu. Một tháng sau đó, vào ngày
1/3/1076, quân Đại Việt dưới sự thống lãnh của Tôn Đản đã chiếm được Ung
Châu. Thái thú Tô Giám chống cự được 40 ngày thì thua trận, cảm thấy
nhục nhã nên phát cuồng, giết chết 36 thành viên trong gia đình rồi tự
tử.
Quan Đô giám của Quảng Tây là Trương Thủ Tiết nghe tin, vội đem quân
đến cứu viện nhưng bị đoàn quân của đức Lý Thường Kiệt chận đánh ở cửa
ải Côn Luân, Trương Thủ Tiết bị chém chết tại trận. Khoảng 8 ngàn quân
Tống tử trận, hàng chục ngàn tù binh ở 3 châu bị áp giải về Đại Việt.
Sau thắng lợi này, đức Lý Thường Kiệt được phong làm Nguyên soái Phục
quốc Thái úy và Tôn Đản được thăng chức Trung Lang tướng quân. Về sau,
Tôn Đản được phong chức Ngự tiền Đô thống lãnh tại kinh thành Thăng
Long.
Hai năm sau đó, nhà Tống lại mang đại quân sang đánh Đại Việt để trả
thù vụ tấn công phủ đầu, đốt phá quân lương và san bằng thành trì ba
châu Khâm, Liêm, Ung của quân Đại Việt. Dưới sự chuẩn bị của đức Lý
Thường Kiệt và các danh tướng như Tôn Đản, quân dân Đại Việt đã lập
phòng tuyến trên sông Như Nguyệt để giao chiến với quân Tống suốt mấy
năm liền. Giặc Tống bị tổn thất nặng, kể cả cái gọi là "108 anh hùng
Lương Sơn Bạc" được triều đình nhà Tống chiêu hàng, cũng chôn vùi tính
mạng ở phòng tuyến Như Nguyệt và sau đó phải rút lui về nước.
Chính trong trận chiến giữ nước hào hùng nói trên, bài cổ thi "Nam
Quốc Sơn Hà" với 4 câu thơ mà đức Lý Thường Kiệt cho phổ biến mỗi đêm,
đã khích động lòng quân, lòng dân quyết một lòng tử chiến với giặc Tống,
và trở thành một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt:
"Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư".
Có nghĩa là:
Sông núi nước Nam, vua Nam trị vì,
Hiển nhiên Thiên định hẳn không lầm.
Giặc bây trái mệnh đòi xâm chiếm,
Thảm bại trông kìa, hỡi lũ tham.
* * *
Trong lịch sử nước Việt, cuộc tấn công đánh phủ đầu quân Tống do đức
Lý Thường Kiệt chỉ huy có lẽ là cuộc tiến đánh duy nhất vào nước Tàu của
triều đình Đại Việt tính từ cuộc khởi nghĩa đánh chiếm 64 thành trì của
Hai Bà Trưng. Sở dĩ gọi là duy nhất là vì sau này có Nùng Trí Cao, một
tù trưởng ở phía Tây Bắc, cũng khởi nghĩa và không chỉ quậy phá Đại Việt
mà còn tấn chiếm nhiều châu huyện của nhà Tống.
Lịch sử không ghi rõ Nùng Trí Cao có liên hệ huyết thống hay không
với danh tướng Tôn Đản, tức Nùng Tôn Đản, người đã không phụ lòng tin
cậy của đức Lý Thường Kiệt khi chỉ huy cánh quân tiến đánh châu Ung và
đã chiến thắng một cách oanh liệt. Tuy nhiên cái tên Tôn Đản được lịch
sử Việt nhắc đến, chứng tỏ là từ một ngàn năm trước, triều đình nhà Lý
rất thành công trong việc chiêu hiền đãi sĩ, đối xử tử tế với các dân
tộc thiểu số, thậm chí là còn gả nhiều công chúa cho các tù trưởng ở
miền Tây Bắc.
Và đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến quyết định vô cùng sáng
suốt của đức Lý Thường Kiệt là thay vì ngồi chờ quân Tống tràn sang tàn
phá nước Việt thì cách phòng thủ tốt nhất là tấn công địch ngay trên đất
địch. Quyết định này đã khiến cho nước Việt có thêm một danh tướng sáng
chói trong lịch sử: Trung lang tướng Tôn Đản.
Việt Thái
No comments:
Post a Comment