Thursday, June 30, 2011

Một thiên đường bị cướp đoạt

Chuyện Nước Non Mình
“Sáng đó (19.1.1974), chúng tôi dậy tập thể dục. Mặt trời lên rất đẹp. Bất ngờ một người nhìn thấy ngoài khơi có rất nhiều tàu bao vây quanh đảo. Mọi người vội vàng chạy vào lấy ống nhòm ra nhìn và biết đó là tàu của Trung Quốc”, ông Tạ Hồng Tân, một trong những người Việt Nam cuối cùng rời khỏi Hoàng Sa kể lại.

Đó là một ngày không quên trong đời ông Tân. Năm nay đã 73 tuổi, ông Tân sống bằng nghề dạy kèm tiếng Anh, tiếng Pháp tại phường An Hải Đông của thành phố Đà Nẵng. Ông là người gốc Sài Gòn, làm nhân viên quan trắc cho đài khí tượng VN, được điều ra làm quan trắc viên Trạm khí tượng Hoàng Sa vào cuối năm 1973 cho đến ngày bị Trung Quốc bắt làm tù binh.
Khi đó, trên đảo có một trung đội địa phương quân thuộc đại đội 157, và 6 nhân viên thuộc Trạm khí tượng Hoàng Sa. Ông Tân kể: “Thấy tàu chiến nhiều quá chúng tôi rất lo âu. Nhân viên vô tuyến của trạm liên lạc về đài khí tượng Đà Nẵng cầu cứu. Kêu thì kêu vậy nhưng biết không làm gì được vì lực lượng Trung Quốc quá đông!”.
Từ sáng sớm đến hết ngày 19-1-1974, tàu chiến Trung Quốc án binh bất động. Lúc đó đã xảy ra hải chiến ngoài khơi, ở các đảo xung quanh, nhưng những nhân viên khí tượng này không biết. Khoảng 5 giờ chiều, sau một đợt pháo kích, Trung Quốc cho quân đổ bộ vào đảo bắt sống mọi người. “Họ đưa chúng tôi lên tàu về đảo Hải Nam ngày hôm sau. Chúng tôi được chuyển lên xe bịt bùng về giam ở đâu không biết!”, ông Tân kể. Mọi tù binh đều bị tra hỏi nhưng được đối xử tử tế.
Khoảng gần 3 tuần sau, một quan chức Trung Quốc tới trại, mang theo một người phiên dịch và nói với những người Việt: “Hoàng Sa là đảo của Trung Quốc nhưng Việt Nam chiếm làm đài khí tượng. Nay Trung Quốc lấy lại và các anh sẽ được trả tự do trong vài ngày tới”. Khoảng một tuần sau, ông Tân cùng toàn bộ anh em tù binh được đưa qua Hồng Kông. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa điều một máy bay C130 sang Hồng Kông nhận tù binh. Đa số tù binh sau đó trở về nơi làm việc ở Đà Nẵng.
Ông Tân còn nheo nheo mắt hỏi: “Không biết bây giờ tên của tôi có còn ngoài Hoàng Sa không?”. Ý ông muốn nói là tất cả những binh sĩ và nhân viên khí tượng khi đến Hoàng Sa, trong những giờ rảnh rỗi thường ra những tảng đá ven biển khắc họ tên và địa chỉ của mình lên đó làm kỷ niệm.
Một trong những người phục vụ lâu đời ở Hoàng Sa hiện còn sống tại Đà Nẵng là ông Nguyễn Tấn Phát, nhân viên quan trắc đài khí tượng VN. Đầu năm 1958, ông Phát được điều ra Đà Nẵng rồi đi Hoàng Sa. Đó là thời kỳ đẹp nhất trong đời của một chàng trai Sài Gòn. Ông nói: “Mỗi nhân viên chỉ đi Hoàng Sa luân phiên 3 tháng, mỗi lần đi có 6 người gồm 4 quan trắc viên, 1 nhân viên vô tuyến và 1 nhân viên phục vụ lo thổi bóng hơi quan trắc cao không đo gió kiêm nấu ăn. Tôi lúc đó mới 23 tuổi, chưa lập gia đình, thấy cảnh sắc thần tiên nên mê và xin ở lại luôn cả nửa năm”.
Nửa năm sống trên đảo trong ký ức của ông Phát là nửa năm được làm Từ Thức! Công việc quan trắc cũng khá nhẹ nhàng, chủ yếu vài giờ trong ngày. Thời gian còn lại ông và đồng nghiệp ngao du khắp đảo Hoàng Sa. Lâu lâu ông đi theo xuồng máy của Thủy quân Lục chiến đi thăm các đảo có chim sinh sống. Đó là những bãi cát vàng rực trong ánh chiều tà. Họ len lỏi giữa những ổ trứng chim. Chim nhiều vô kể, chúng không hề sợ hãi khi thấy người tới gần.
Bình minh trên quần đảo Hoàng Sa là thời khắc huy hoàng nhất trong ngày. Ông Phát kể: “Chúng tôi thấy mặt trời đỏ rực, to và rất gần. Nắng lên một chút, nước biển ven bờ xanh một màu ngọc bích đẹp lạ lùng, xa xa hơn một chút nữa màu xanh dương rồi tới xanh lục. Chiều chiều rảnh rỗi chúng tôi bơi ra xa lặn xuống xem những rạn san hô với cá đủ màu sắc".
Hoàng Sa có rất nhiều cá, nhất là cá mú, giúp binh sĩ và nhân viên khí tượng có nguồn thực phẩm khá dồi dào. Cá, ốc, mực, bạch tuộc, chim… “Chỉ cần quăng câu chừng vài phút là được cả chục con cá mú, cá khế, cá xanh xương… Con nào con nấy nặng từ 5 đến 7 ký”, theo lời kể của ông Võ Như Dân, người ở Hoàng Sa lâu nhất và hiện vẫn còn sống.
Ông Dân làm người nấu ăn cho trạm khí tượng Hoàng Sa từ năm 1956. Nhóm nấu ăn thời đó chỉ có 3 người thay nhau ra Hoàng Sa. Ông Dân đã có 14 chuyến ra Hoàng Sa, mỗi chuyến 3 tháng, tổng cộng là 3 năm rưỡi sinh sống trên đảo. Cảnh sắc quen thuộc thân thương quá đỗi đến mức ông bảo: “Hôm qua tôi xuống sở Nội vụ Đà Nẵng, nơi có kho tư liệu và hành ảnh về Hoàng Sa. Tối về nằm mường tượng nó ở trước mặt tôi. Cả phần đời tôi đã ở đó”. Suốt ngày ông Dân đi câu cá về nấu nướng cho mọi người. Đồ hộp có rất nhiều nhưng không ai ăn. Khu nhà do Pháp xây trên đảo có những hầm chứa nước mưa, đủ để uống quanh năm.
Khoảng năm 1958, có lần một đoàn tàu Trung Quốc đến gần nhưng bị Thủy quân Lục chiến nổ súng bắn đuổi đi. Tàu cá Nhật có lần tới xin nước ngọt. Họ ra dấu xin lên đảo lấy nước rồi cúi đầu cảm tạ…
Biết bao kỷ niệm trong lòng những người đã từng ở Hoàng Sa. Ông Phạm Khôi, một địa phương quân Việt Nam Cộng Hòa, mở tủ lấy ra hai chiếc vỏ ốc còn khắc ngày ông đặt chân lên Hoàng Sa: 23 tháng chạp năm 1969. Đó là hai chiếc vỏ ốc ông mang về và trở thành báu vật của đời ông!

No comments:

Post a Comment