Kính thưa quý thính giả, Kampuchea vừa ký kết
hợp đồng đặt mua phi cơ COMAC của Trung Cộng. Quyết định này không chỉ là
thương vụ hàng không, mà còn mang ý nghĩa chính trị, kinh tế và chiến lược lâu
dài, ảnh hưởng cả đến Việt Nam.
Trong chuyên mục BÌNH LUẬN hôm nay, kính mời
quý thính giả theo dõi bài “Từ Việc Kampuchea Chọn Máy Bay Comic Của Trung Cộng
Đến Nỗi Bất Hạnh Của Dân Tộc Việt” của ĐOÀN KHÔI, thành viên Ban Biên Tập đài
ĐLSN sẽ do Nguyên Khải trình bày sau đây ...
Trong tuần qua, báo chí quốc tế đồng loạt loan tin chính quyền Kampuchea vừa ký kết hợp đồng mua nhiều phi cơ dân dụng do hãng COMAC của Trung Cộng chế tạo. Đây là lần đầu tiên quốc gia láng giềng phía Tây Nam của Việt Nam chính thức đặt mua loại phi cơ vốn được Bắc Kinh quảng bá như biểu tượng cho tham vọng công nghệ hàng không. Đằng sau một thương vụ tưởng chừng thuần túy kinh tế lại chứa đựng nhiều toan tính chính trị, không chỉ cho quan hệ Kampuchea – Trung Cộng mà còn có ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam trong bối cảnh tranh chấp và đối đầu khu vực đang gia tăng.
Kampuchea là một nước nhỏ, nằm giữa Thái Lan, Lào và Việt
Nam, dân số hơn 17 triệu người, kinh tế còn lệ thuộc nhiều vào viện trợ và đầu
tư ngoại quốc. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Hun Manet, quốc gia này tiếp tục
duy trì quỹ đạo thân Bắc Kinh mà cha của ông là Hun Sen đã đặt nền móng suốt
hơn ba thập niên. Việc lựa chọn COMAC thay vì Boeing hay Airbus chẳng khác nào
một lời khẳng định chính trị: Nam Vang gắn bó chặt chẽ với Trung Cộng, từ kinh
tế, quân sự cho tới hạ tầng chiến lược.
COMAC, với mẫu C919 và ARJ21, vốn được Trung Cộng o bế
như niềm tự hào quốc gia. Tuy nhiên, ai cũng biết loại phi cơ này vẫn chưa vượt
khỏi cái bóng của Boeing và Airbus về kỹ thuật và độ tin cậy. Vì thế, thị trường
quốc tế gần như chưa mặn mà, ngoại trừ một vài hợp đồng tượng trưng tại Phi
châu và Nam Mỹ. Nay Kampuchea ký mua, Bắc Kinh lập tức xem đó là thắng lợi ngoại
giao, bởi Trung Cộng cần những “khách hàng chính trị” để chứng minh rằng COMAC
có thể chen chân vào thị trường thế giới.
Đối với Việt Nam, sự kiện này gợi lên nhiều lo ngại. Trước
hết, nó cho thấy Trung Cộng ngày càng dùng Kampuchea làm hậu cứ chiến lược tại
Đông Dương. Nếu trước kia Bắc Kinh xây dựng căn cứ hải quân tại Ream, giúp huấn
luyện quân đội Kampuchea, thì nay lại xâm nhập thêm vào lĩnh vực hàng không dân
dụng. Phi cơ COMAC, ngoài chức năng chở khách, còn có thể là kênh để Bắc Kinh
gia tăng ảnh hưởng về kỹ thuật, chuyên viên, phụ tùng, rồi từ đó thiết lập mạng
lưới ảnh hưởng lâu dài. Một khi kỹ thuật và bảo trì đều phụ thuộc Trung Cộng,
hàng không Kampuchea khó lòng tách rời quỹ đạo Bắc Kinh.
Kế đến, sự việc làm nổi bật thế cô độc của Việt Nam trong
quan hệ láng giềng. Thái Lan vốn ngả về Mỹ, Lào lệ thuộc kinh tế Trung Cộng, và
nay Kampuchea càng xiết chặt quan hệ với Bắc Kinh. Trong thế tam giác đó, Việt
Nam bị vây ép cả phía Bắc lẫn Tây và Tây Nam. Một chính sách quốc phòng dựa vào
“đối tác toàn diện” với Trung Cộng, như lãnh đạo Hà Nội vẫn rêu rao, rốt cuộc
chỉ biến Việt Nam thành con cờ yếu thế, khó tạo thế cân bằng với Mỹ, Nhật, hay Ấn
Độ.
Dĩ nhiên là Kampuchea có quyền lựa chọn đối tác mua máy
bay. Nhưng sự lựa chọn này mang tính biểu tượng --Nam Vang sẵn sàng hy sinh chuẩn
mực quốc tế để tỏ lòng trung thành với Bắc Kinh. Câu hỏi được đặt ra là nếu một
ngày COMAC cung cấp máy bay quân sự hay máy bay vận tải, Kampuchea sẽ từ chối
hay chấp nhận? Khi đó, ảnh hưởng của Trung Cộng chẳng những nằm trên đất liền
mà còn vươn lên không phận ngay sát biên giới Tây Nam Việt Nam.
Hệ quả chính trị không dừng lại ở chỗ Kampuchea tỏ ra thân
Bắc Kinh. Nó còn phơi bày sự bất lực của Việt Nam trong việc tạo ảnh hưởng với
nước láng giềng từng có nhiều ràng buộc lịch sử. Sau bao nhiêu năm viện trợ, mở
cửa thương mại, Hà Nội vẫn không thể lôi kéo Nam Vang ra khỏi vòng tay Trung Cộng.
Ngược lại, giới cầm quyền Kampuchea thỉnh thoảng còn dùng bài Việt Nam để khơi
dậy chủ nghĩa dân tộc, củng cố tính chính danh của họ.
Điều đáng nói là báo chí trong nước chỉ đưa tin chiếu lệ,
né tránh phân tích nguyên nhân và hệ quả. Đây là cách hành xử quen thuộc của chế
độ độc tài đảng trị -- giấu nhẹm sự thật để khỏi làm lộ sự yếu kém. Nhưng nhân
dân thì không thể mù mờ mãi. Người ta sẽ đặt câu hỏi: tại sao Việt Nam không có
một chính sách ngoại giao mềm dẻo, khéo léo hơn để giữ thế cân bằng trong vùng?
Tại sao lãnh đạo cứ khư khư bám lấy “mười sáu chữ vàng”, “bốn tốt” mà để
Kampuchea ngày càng ngả hẳn vào tay Bắc Kinh?
Thực tế, nếu Hà Nội cứ tiếp tục duy trì thể chế độc tài,
thiếu minh bạch, không biết dựa vào sức dân, thì khó lòng có chính sách ngoại
giao độc lập. Một nước muốn giữ được thế đứng trong khu vực, trước hết phải có
nội lực kinh tế vững vàng, xã hội tự do, và lòng dân tin tưởng. Bằng không, những
tuyên bố ngoại giao chỉ là tiếng vang trong thinh không, còn thực địa thì kẻ
khác thao túng.
Bài học cho Việt Nam từ việc Kampuchea mua phi cơ COMAC rất
rõ ràng. Trong quan hệ quốc tế, không có tình bạn vô điều kiện, chỉ có lợi ích.
Khi lợi ích của Kampuchea gắn chặt với Trung Cộng, họ chẳng cần quan tâm đến phản
ứng của Việt Nam. Muốn thay đổi cục diện, Hà Nội phải thoát ra khỏi cái bóng Bắc
Kinh, tăng cường liên minh với các nước dân chủ, và quan trọng hơn hết là tạo dựng
một thể chế chính trị biết trọng dân, trọng tự do.
Thế nhưng, cái kẹt của Hà Nội là đảng CSVN rất cần Bắc
Kinh làm chỗ dựa lưng để duy trì ngôi vị lãnh đạo độc tôn và vĩnh viễn. Chính
cái kẹt này là nỗi bất hạnh của dân tộc Việt trong thế kỷ 21 này./.
No comments:
Post a Comment