Kính thưa quý thính giả, Vào thế kỷ 19, Việt Nam có một nhà ngôn ngữ học, thông thạo 27 ngoại ngữ, được ghi tên trong Bách khoa Tự điển Larousse và được bình chọn là 1 trong 18 văn hào hàng đầu thế giới. Ngoài ra, ông còn là một trong những người đầu tiên viết văn bằng chữ quốc ngữ. Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Học giả Trương Vĩnh Ký”của Việt Thái, qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Trương Vĩnh Ký tên thật là Trương Chánh Ký, sinh ngày 6/12/1837 tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc tỉnh Bến Tre), là con thứ 3 của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu.
Năm 8 tuổi, thân phụ ông được
triều đình cử làm phụ tá trưởng đoàn sứ thần sang Miên, bị nhiễm bệnh và qua
đời trong chuyến đi này.
Thấy ông ngoan hiền và siêng
năng, Cố Tám (một tu sĩ Công giáo) khuyên mẹ ông cho ông đi học chữ quốc ngữ,
theo đạo Công giáo và đặt tên là Jean Baptiste Pétrus Trương Chánh Ký, về sau
đổi thành Pétrus Trương Vĩnh Ký, gọi tắt là Pétrus Ký.
Linh mục Long từ Pháp về, thấy
ông thông minh và hiếu học, nên đã tận tình dạy ông chữ La tinh.
Năm 1851, ông được gửi vào
trường đạo Dulalma ở Penang, Mã Lai. Trong thời gian này, ông học thêm tiếng Ấn
Độ, Anh, Tây Ban Nha, Mã Lai, Nhật Bản, Hy Lạp, Thái Lan...
Năm 21 tuổi, ông tốt nghiệp
và về nước đúng vào lúc mẹ ông qua đời. Sau đó, ông lên Sài Gòn tá túc tại nhà
vị Giám mục người Pháp tên Dominique Lefèbre và bắt đầu làm thông ngôn vào ngày
20/12/1860.
Hay tin Trương Vĩnh Ký làm
việc cho Pháp, một số quan lại nhà Nguyễn đố kỵ, nhưng ông mượn câu cách ngôn
Latinh "Ở với họ mà không theo
họ" để biện minh.
Mặc dù làm việc cho Pháp,
nhưng khi sưu tầm và chú thích bản "Gia
Định Thất Thủ Vịnh", ông vẫn gọi Pháp là “giặc”.
Ngày 8/5/1862, Pháp thành lập
trường Thông Ngôn, ông được nhận vào dạy cho trường này.
Năm 1863, ông làm thông ngôn
cho phái đoàn của cụ Phan Thanh Giản sang Pháp để chuộc lại 3 tỉnh miền Đông
Nam Kỳ.
Ngày 1/4/1865, ông được chấp
thuận cho phát hành tờ "Gia Định báo”. Nhưng mãi đến ngày 16/5/1869 mới có
nghị định của Phó đô đốc Ohier ký cho ông làm chủ nhiệm, và Huỳnh Tịnh Của làm
chủ bút.
Năm 1872, ông được bổ nhiệm làm
Đốc Học trường Sư Phạm dạy người Pháp học tiếng Đông Dương.
Năm 1874, ông được bổ nhiệm
làm Ủy viên Thượng Hội đồng Giáo Dục và được bình chọn là một trong "Thế
giới Thập Bát Văn Hào".
Ngày 17/5/1883, ông được Hàn
Lâm Viện Pháp phong danh hiệu Viện sĩ.
Năm 1887, ông về hưu sau
chuyến đi công tác ở Bangkok.
Năm 1888, trường Thông Ngôn
đóng cửa, ông thất nghiệp và sau thời gian dài sống trong hoàn cảnh đơn chiếc, túng
quẫn và bệnh hoạn, ông qua đời ngày 1/9/1898.
Mộ phần của ông hiện tọa lạc
tại góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc quận 5, Sài Gòn.
*****
Học giả Trương Vĩnh Ký là một
nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và khảo cứu văn hóa Việt Nam. Ông là
người có tri thức uyên bác, am tường văn hóa Cổ Kim Đông Tây, nên được phong làm
Giáo sư Viện sĩ Pháp, được ghi tên trong Bách khoa Tự điển Larousse.
Ông thông thạo 27 ngoại ngữ,
được xem như là một trong những người biết nhiều ngoại ngữ nhất thế giới và là
1 trong 18 văn hào đứng đầu thế giới ở thế kỷ 19. Đây là điều hãnh diện của
người Việt trong thời kỳ đen tối của đất nước.
Công tâm mà nói, ông không
chỉ được xem là ông tổ nghành báo chí VN mà còn là một người có công rất lớn
vào việc phát triển hệ thống chữ quốc ngữ trong thời kỳ phôi thai.
Ông để lại hơn 100 tác phẩm
về văn học, lịch sử, địa lý, tự điển và dịch thuật. Riêng đối với nền báo chí Việt
Nam, ông được xem là "ông tổ nghề báo" vì là sáng lập viên kiêm chủ
nhiệm tờ “Gia Định báo”, tờ báo viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên tại Việt Nam.
Ở cuối thế kỷ 19, học giả
Pháp tên là Jean Bouchot đã gọi ông là "một
nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và Trung Hoa".
Vũ Ngọc Phan, trong tập Nhà
văn Hiện đại, đã viết: "Còn Trương
Vĩnh Ký thì thiệt là một nhà bác học. Ông không những là một nhà văn, một nhà
viết sử, một nhà dịch thuật mà còn là một người giỏi về ngôn ngữ".
Điều đáng nói là thực dân
Pháp trong gần 100 năm đô hộ VN, ít nhất cũng đào tạo ra được những công dân
Việt có tầm vóc trên thế giới, được người dân Pháp ngưỡng mộ về tài năng của
họ. Trong khi đó, chế độ cộng sản luôn tự xưng là "đỉnh cao trí tuệ"
suốt hơn 75 năm qua, chẳng những không có được một ai xuất sắc như Học giả Trương
Vĩnh Ký, mà còn nhận chìm cả một nền giáo dục xuống mức thấp nhất.
Bằng chứng là tại Việt Nam
ngày nay, ra đường là gặp rất nhiều "giáo sư" hay "tiến sĩ”
nhưng không có một ai, hoặc một công trình nghiên cứu nào mang tầm vóc quốc tế.
Điều này cho thấy rằng, chế độ độc tài cộng sản đã đưa đất nước ngày càng tụt
hậu, thua cả thời thực dân Pháp.
No comments:
Post a Comment