Điều 4 Hiến Pháp quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động”. Thế nhưng thực tế cho thấy giới lao động là thành phần khốn cùng nhất trong xã hội Việt Nam ngày nay.
Trong chuyên mục BÌNH LUẬN hôm nay, kính mời quý thính giả theo dõi bài “Thảm Kịch Lao Động Việt Nam” của THẾ VŨ, thành viên Ban Biên Tập đài ĐLSN, sẽ do Miên Dương trinh bày sau đây
Khó khăn lớn nhất của giới lao động Việt Nam ngày nay chính là sự bấp bênh của đời sống, hay nói rõ hơn là sự thiếu ổn định trong sinh kế. Đằng sau những bản tin tuyên truyền về tăng trưởng kinh tế, về thu hút đầu tư nước ngoài, là khuôn mặt mệt mỏi của hàng triệu công nhân, là nỗi lo cơm áo gạo tiền đè nặng trên vai những gia đình lao động. Người ta thường ca ngợi Việt Nam là một trong những nước có lực lượng lao động dồi dào và trẻ trung nhất Đông Nam Á, nhưng cái “dồi dào” đó lại biến thành gánh nặng, vì công ăn việc làm không có sự bảo đảm dài lâu, thu nhập không đủ đáp ứng đời sống, và hệ thống an sinh xã hội lại chấp vá, bấp bênh.
Từ nhiều năm nay, nền kinh tế Việt Nam dựa nặng vào
các xưởng gia công, chính yếu là may mặc, giày dép, điện tử, lắp ráp cho các tập
đoàn ngoại quốc. Người công nhân làm việc từ sáng tới chiều, gò lưng trước dây
chuyền, nhưng số phận của họ hoàn toàn tùy thuộc vào những đơn hàng từ bên kia đại
dương. Chỉ cần có biến động, như khủng hoảng tài chính, suy thoái tiêu dùng,
hay căng thẳng thương mại, thì đơn hàng lập tức bị cắt giảm. Khi đó, hàng chục
ngàn công nhân bị cho nghỉ việc luân phiên, giảm giờ, thậm chí bị sa thải. Chuyện
này đã xảy ra nhiều lần, và mỗi lần như thế là hàng vạn gia đình rơi vào cảnh
khốn cùng. Sự bấp bênh này chính là cái nhức nhối lớn nhất.
Tiền lương tối thiểu thì năm nào cũng được nhà cầm quyền
rêu rao là tăng, nhưng thực tế chẳng thấm vào đâu so với vật giá leo thang.
Công nhân chỉ đủ sống khi làm thêm giờ, tăng ca liên tục, và chính vì vậy mà sức
khỏe kiệt quệ. Một khảo sát của các tổ chức lao động quốc tế đã cho thấy đa số
công nhân Việt Nam không tích lũy nổi chút tiền nào sau một năm làm việc, vì mọi
thu nhập đều đã tiêu sạch cho các nhu cầu căn bản. Người lao động tự do thì đời
sống còn chông chênh hơn. Từ người chạy xe ôm công nghệ, giao hàng, đến người
buôn gánh bán bưng, tất cả đều sống trong cái thế “nay còn mai mất”. Họ không
có hợp đồng, không có bảo hiểm, không được che chở bởi bất kỳ luật lệ nào. Khi
dịch bệnh xảy ra, họ là những kẻ khốn khổ nhất, mất việc trong một đêm, mà
không nhận được hỗ trợ xứng đáng nào từ nhà cầm quyền.
Một điều khác đáng lo ngại là giới lao động khó có cơ
hội tiến thân. Đa số công việc hiện tại chỉ là những công việc giản đơn, không
đòi hỏi tay nghề cao, và cũng chẳng tạo cơ hội học hỏi. Hệ thống đào tạo nghề ở
Việt Nam vốn chậm chạp, xa rời thực tế, khiến công nhân chỉ quanh quẩn ở mức
lao động cơ bắp. Đã không ít người qua tuổi bốn mươi thì bị đẩy ra đường, vì
các xưởng chỉ thích dùng người trẻ, nhanh nhẹn, ít đòi hỏi. Sự phân biệt ấy khiến
đời sống người lao động càng thêm bấp bênh, vì họ biết rõ rằng tuổi nghề của
mình quá ngắn, mà không có con đường khác để thay thế.
Người ta thường ví đời sống công nhân như một chiếc lá
nổi trôi. Họ không làm chủ được công việc, không làm chủ được tương lai. Nếu
may mắn thì có đơn hàng, có giờ tăng ca, còn không thì sống dở chết dở. Hệ thống
công đoàn nhà nước vốn chỉ là cái loa của Đảng, không bao giờ bảo vệ quyền lợi
của người lao động. Khi công nhân đình công, họ thường bị đàn áp, bị gán cho
cái nhãn “bị thế lực thù địch xúi giục”. Trong khi đó, chính giới cầm quyền lại
phè phỡn trên mồ hôi và máu của những người làm công ăn lương.
Vấn đề an sinh xã hội cũng chẳng khá hơn. Bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm xã hội vốn chỉ tồn tại trên giấy tờ. Khi công nhân mất việc, họ
phải chạy đủ loại thủ tục nhiêu khê mới mong nhận được một ít tiền trợ cấp, mà
số tiền ấy chẳng đủ để sống hết tháng. Hệ thống y tế thì xuống cấp, nên ngay cả
việc khám bệnh, chữa trị cũng là gánh nặng. Người lao động vì thế vừa phải làm
việc kiệt sức để sống, vừa không có sự bảo đảm nào khi rơi vào cảnh khó khăn.
Tất cả những điều ấy đã làm nên một thực tế phũ phàng:
giới lao động Việt Nam là tầng lớp tạo ra giá trị thặng dư cho xã hội, nhưng lại
hưởng ít nhất. Họ chính là chiếc trụ cột giữ cho guồng máy kinh tế quay đều,
nhưng bản thân họ lại là những con ốc bị vắt kiệt, bị thay thế bất cứ lúc nào.
Không có quyền tự do nghiệp đoàn, không có tiếng nói trong chính sách, không có
con đường thăng tiến, và không có sự che chở an sinh, người lao động Việt Nam
hiện nay phải sống trong nỗi bất an thường trực.
Khó khăn lớn nhất, do đó, không chỉ là đồng lương ít ỏi.
Khó khăn lớn nhất là sự bất ổn toàn diện: bất ổn trong công việc, bất ổn trong
thu nhập, bất ổn trong tương lai. Khi một xã hội để cho đa số người lao động sống
trong cảnh bất ổn như thế, thì đó là dấu hiệu của sự bất công sâu xa và của một
thể chế không đặt con người vào vị trí trung tâm.
Chừng nào còn chế độ độc tài độc đảng, chừng nào công
nhân còn bị xem là công cụ hơn là con người, thì chừng ấy giới lao động Việt
Nam còn tiếp tục sống trong cảnh chông chênh, chẳng biết ngày mai sẽ ra sao./.
No comments:
Post a Comment