Kính thưa quý thính giả,
Sử Việt ghi nhận nhiều nhà tu hành vừa hành đạo, vừa giúp đời, đem hết công sức để xây dựng một triều đại thanh bình thịnh trị, củng cố nền độc
lập lâu dài cho đất nước.
Thời nhà Trần có một vị tướng xuất thân từ
hoàng gia, 2 lần cầm quân chống giặc phương Bắc. Ngàiphóng khoáng, có bản năng tuyệt luân vượt ra ngoài những định
kiến và được xem là người có phong thái siêu việt.
Trong tiết mục Danh nhân nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi
đến quý thính giả bài “Tuệ Trung Thượng Sĩ” của Việt Thái qua giọng
đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Ngóng càng thêm cao,
Khen càng thêm bền.
Bỗng sau lưng đó,
Xem lại trước liền.
Đó là Thượng Sĩ,
Vậy mới là Thiền.
Đó là 6 câu thơ của vua
Trần Nhân Tông, Thiền Tổ phái Trúc Lâm ca ngợi Tuệ Trung Thượng Sĩ.
Tuệ Trung Thượng Sĩ tên
là Trần Quốc Tung sinh năm 1230 tại phủ Thiên Tường, nay thuộc tỉnh Nam Định.
Ông là con trưởng của An Sinh Vương Trần Liễu, Trần Liễu là anh ruột của Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn. Ông là học trò xuất sắc của Thiền sư Tiêu Dao, một nhân vật nổi tiếng
cuối thời nhà Lý.
Sau khi An Sinh Vương Trần
Liễu qua đời năm 1251, Trần Quốc Tung được vua Trần Thái Tông nhận làm con
nuôi, phong tước Hưng Ninh Vương,cho thừa kế đất thang mộc của
cha ở vùng Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (thuộc 2 huyện Đông
Triều và Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay).
Trong cuộc kháng
chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 vào năm 1285và lần thứ 3 vào năm 1287, Trần Quốc
Tung đều trực tiếp tham dự.
Sử chép,vào ngày 10/6/1285, ông cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn 2 vạn quân giao chiến với quân của tướng nhà Nguyên là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt.
Trong cuộc
kháng chiến lần thứ 3, ông còn được giao những nhiệm vụquan
trọng, đến doanh trại địch quân trá hàng, làm cho địch quân mất cảnh giác để
sau đó vua nhà Trần mang quân đến đánh phá.
Đã có lúc ông được đề cử trông coi quân dân vùng đất Lộ Hồng và xây dựng vững chắc vùng phên
giậu phía Đông kinh thành Thăng Long, để làm cứ điểm trong cuộc kháng chiến đánh đuổi quân Nguyên - Mông xâm lược.
Sau khi kháng chiến thành công, Trần Quốc Tung được phong chức Tiết Độ Sứ cai quản phủ Thái Bình.
Nhưng không lâu sau, ông lại lui về ấp Tịnh
Bang (nay ở huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng) lập Dưỡng Chân Trang để
theo đuổi nghiệp thiền với pháp danh là Tuệ Trung.
Năm 1290, Thượng
hoàng Trần Thánh Tông băng hà, Tuệ Trung về kinh đô chịu tang.
Vài tháng sau,
ông bị nhiễm bệnh ở Dưỡng Chân Trang và mất vào năm 1291, hưởng thọ 61 tuổi.
Tác phẩm Thượng Sĩ Ngữ
Lục của Tuệ Trung hiện còn 49 bài thơ.
Ông tu theo đạo Phật,
trước hết là giác ngộ cho mình, sau đó giác ngộ cho mọi người. Ông không xem trọng
hình thức, không tu ở chùa mà tu tại gia, ông nói:
Khi mê thấy không sắc,
Khi ngộ hết sắc không.
Sắc không và mê ngộ,
Xưa nay một lẽ đồng.
*****
Đời nhà Lý có Thiền sư Vạn Hạnh nổi
tiếng, được xem là một Quốc Sư mẫn tuệ, một chiến lược gia tài ba, một nhà ngoại giao tuyệt
vời.Ngài là một khai quốc công thần của
triều nhà Lý, với một tâm nguyện lớn của bậc
cao tăng Phật Giáo là dùng hết công sức đểxây dựng một triều đại thanh bình thịnh trị, để củng cố nền độc lập lâu dài cho dân Đại
Việt.
Nhưng điều đáng khâm phục hơn nữa là đứng trước những
giờ phút sinh tử tồn vong của đất nước, Thiền sư Vạn Hạnh đã không bỏ
"đời" để chọn "đạo". Vì thế, để tưởng nhớ công đức của người khai sáng triều đại nhà Lý(một trong những triều đại nổi bật nhất
trong sử Việt)vua Lý Nhân Tông đã viết bài kệ Truy
tán Vạn Hạnh Thiền Sư.
Tiếp đến, nhà Trần là một trong những triều đại uy mãnh, được liệt vào hàng bậc nhất lịch
sử dân tộc với những chiến công hiển hách, 3 lần đại thắng quân Nguyên - Mông. Đây cũng là một triều đại không chỉ chuộng
sức mạnh mà còn chăm lo cho đời sống tâm linh và văn hóa.
Đời nhà Trần cũng đã xuất hiện nhiều thiền sư trác tuyệt xuất thân từ vua quan, không bận
lòng với công danh phú quý và thấm nhuần chánh pháp, nên thời nhà Trần cũng là một trong những
thời vàng son của đất nước. Phật giáo thời nhà Trần đã đi vào lịch sử trong việc phát triển tư tưởng dân
tộc.
Cũng giống như Vạn
Hạnh Thiền Sư, Tuệ Trung Thượng Sĩđã góp phần hình thành nền văn hóa chống lại
xu thế đồng hóa từ phương Bắc.Ngoài chữ dũng của một vị tướng, Ngàicòn là một cư sĩ tinh thông về đạo Phật,không
chỉ là thầy của vua Trần Nhân Tông mà còn là một tư tưởng gia của dân tộc.
Cuộc đời và sự nghiệp của
Tuệ Trung Thượng Sĩlà một tấm gương sáng, có ảnh hưởng lớn, không chỉ đối với Phật giáo nhà Trần mà
còn đối với học thuật của thời này,góp phần tạo nên tư tưởng Thiền Trúc Lâm tại Việt Nam.
Tuệ Trung Thượng Sĩ đã
góp phần đặt cơ sở cho chủ trương “Thiền Giáo
đồng hành” (kết hợp chặt chẽ giữa thiền với tu tập) trong giác ngộ của Phật giáo Việt
Nam sau này.
Với những đóng góp về văn hóa, xây dựng nền văn hiến
cho dân tộc, cuộc đời
Tuệ Trung Thượng Sĩlà một điểm son trong trang sử Việt, xứng đáng được vinh danh để hậu thế noi theo./.
No comments:
Post a Comment