Saturday, July 16, 2022

Hùm thiêng Yên Thế

Danh Nhân Nước Việt

Kính thưa quý thính giả,

Lịch sử thời cận đại đã ghi lại công đức của nhiều vị anh hùng dân tộc, những người đã quên mình vì đại nghĩa, anh dũng chiến đấu và hy sinh trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Trong đó có một vị anh hùng chống thực dân Pháp được dân chúng vinh danh qua câu:

Ở đây là đất ông Đề,

Tây vô thì có, Tây về thì không.

Trong tiết mục “Danh nhân nước Việt” tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Hùm thiêng Yên Thế” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.

Hoàng Hoa Thám tên là Trương Văn Thám, được gọi là Đề Thám, được dân chúng vinh danh là Hùm thiêng Yên Thế. Ông sinh năm 1858 tại xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, sau di cư lên Sơn Tây rồi đến Yên Thế, Bắc Giang.

Cha ông là Trương Văn Thận và mẹ là Lương Thị Minh. Cha mẹ ông là những người trọng nghĩa khí, cả hai đều tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Nhàn, Nồng Văn Vân ở Sơn Tây.

Hoàng Hoa Thám được mô tả là người giỏi võ và có khả năng lãnh đạo chỉ huy. Chính ông chỉ huy cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống Pháp từ năm 1885 đến năm 1913. Năm 16 tuổi, ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Đại Trận. Khi Pháp chiếm Bắc Ninh năm 1884, ông gia nhập đoàn nghĩa binh của Trần Quang Loan, lãnh binh Bắc Ninh.

Năm 1885, ông hoạt đng trong đoàn nghĩa quân của Cai Kinh (tức Hoàng Đình Kinh) ở Lạng Giang. Sau khi Cai Kinh mất, ông chiến đấu dưới cờ của đoàn nghĩa quân Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một chỉ huy trưởng có tài thao lược.

Tháng 4 năm 1892, Đề Nắm bị thủ hạ tên Đề Sặt sát hại, ông trở thành thủ lãnh của phong trào Yên Thế với danh hiệu Đề Thám.

Trong gần 30 năm chiến đấu, ông đã nhiều lần đích thân chỉ huy tấn công quân Pháp, tiêu biểu là các trận ở thung lũng Hố Chuối tháng 12 năm 1890 và Đồng Hom tháng 2 năm 1892.

Năm 1893, quân Pháp tập trung lực lượng đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế, cấp chỉ huy Pháp không từ một thủ đoạn nào, từ phủ dụ đến bao vây tàn sát. Pháp ra lệnh cho tay sai là Lê Hoan cầm đầu đoàn quân, một mặt dụ hàng, mặt khác tung quân triệt hạ các xóm làng nơi nghĩa quân Yên Thế hoạt động. Đề Thám không đầu hàng, dùng chiến thuật du kích chiến gây cho quân Pháp  tổn thất nặng nề.

Năm 1894, thấy chưa thể dập tắt được phong trào Yên Thế, Pháp yêu cầu giảng hòa, cắt nhượng cho nghĩa quân 4 tổng thuộc vùng Yên Thế. Đề Thám đồng ý hòa hoãn để có thời gian chiêu mộ thêm lực lượng. Nhưng đến tháng 10 năm 1895, Pháp đã bội ước, huy động toàn lực lượng mở những cuộc tấn công quy mô vào vùng Yên Thế và treo giải thưởng 30 ngàn đồng tiền Pháp cho những ai bắt được Đề Thám. Lần tổng tấn công này của quân Pháp cũng không tiêu diệt được nghĩa quân Yên Thế, nên Pháp yêu cầu giảng hòa lần thứ 2 vào năm 1897.

Trong hơn 10 năm hòa hoãn (từ tháng 12 năm 1897 đến ngày 29 tháng 1 năm 1909), nghĩa quân Yên Thế đã có những bước phát triển mới, địa bàn hoạt động được mở rộng từ miền trung du đến vùng đồng bằng, kể cả vùng Hà Nội.

Đề Thám tổ chức thêm "Đảng Nghĩa Hưng" và "Trung Chân Ứng Nghĩa Đạo" làm nòng cốt. Ông đích thân chỉ huy cuộc khởi nghĩa ngày 27/6/1908 tại Hà Nội trong vụ Hà Thành đầu độcsự kiện này làm chấn động khắp cả nước.

Ngoài ra, ông còn xây dựng đồn Phồn Xương thành căn cứ kháng chiến, đồng thời bí mật liên lạc với lực lượng yêu nước ở hải ngoại. Nhiều sĩ phu như cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Văn Ngôn, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... đã gặp gỡ ông để bàn kế hoạch phối hợp hành động, mở rộng thêm địa bàn hoạt động ở vùng đồng bằng.

Ngày 29/1/1909, Thống sứ Bắc Kỳ đã huy động 15 ngàn quân chính quy và lính khố xanh, cộng thêm 400 quân địa phương do Đại tá Batay chỉ huy, chia ra nhiều mũi dùi tấn công vào căn cứ Yên Thế.

Đề Thám dàn quân chống trả, nhưng vì ít quân hơn nên phải rút lui về Thái Nguyên, Tam Đảo. Con ông là Cả Trọng bị tử thương và con gái út là Trương Thị Thế bị bắt. Từ đó, lực lượng nghĩa quân yếu dần vào cuối năm 1909. Ông phải ẩn náu trong núi rừng Yên Thế cùng với các thủ hạ tâm phúc. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế xem như kết thúc vào năm 1913.

*****

Trong những ngày cuối cùng, Đề Thám chỉ còn vài thủ hạ bên cạnh và phải di chuyển liên tục để tránh truy sát. Pháp bố trí 3 người đến trá hàng để tiếp cận và hạ sát ông cùng 2 thủ hạ tại vùng Hồ Lẩy vào sáng mùng 5 Tết Quý Sửu, tức ngày 10/2/1913, sau đó bêu đầu ông ở Phủ đường Yên Thế để thị uy.

Lịch sử vinh danh ông là anh hùng dân tộc vì đã chiến đấu và hy sinh trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Hầu hết các thành phố đều có những con đường mang tên ông. Tên ông còn được đặt cho nhiều phố và chợ, như chợ Hoàng Hoa Thám ở quận Tân Bình, Sài Gòn.

Mặc dù cuộc khởi nghĩa tại Yên Thế thất bại, nhưng tấm lòng yêu nước của Hùm thiêng Yên Thế mãi được khắc ghi trong lòng người dân nước Việt.

 

No comments:

Post a Comment